Thấm
nhuần tư tưởng của V.I.Lênin “Giành chính quyền đã khó,
giữ chính quyền còn khó hơn”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
vấn đề đấu tranh chống phản cách mạng, bảo
vệ chính quyền. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng, Nhà nước từ sau
Cách mạng tháng Tám thành công, Người đã đưa ra những tư tưởng chỉ đạo, phương
hướng và biện pháp hành động thích
hợp với những điều kiện phức tạp của cuộc
đấu tranh bảo vệ chính quyền ở nước ta. Vận dụng sáng tạo và nhuần
nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật macxít kết hợp với các yếu tố
biện chứng của triết học phương Đông,
qua đó, Người đã hình thành hệ phương
pháp luận biện chứng mang đậm dấu ấn riêng
của mình trong lãnh đạo bảo vệ an ninh, trật tự. Phương pháp
biện chứng Hồ Chí Minh soi đường cho sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn để toàn Đảng, toàn dân nói chung và Công
an nhân dân nói riêng học tập, phát huy trong điều kiện mới.
Bài viết này góp phần khẳng
định một số nội dung bước đầu về phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh trong bảo
vệ an ninh trật tự.
1.
Biện
chứng trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân, công cụ chuyên chính của nhà
nước dân chủ nhân dân
Giáo sư
Singô Sibata, nhà sử
học Nhật
Bản cho rằng: “...một
trong những đặc điểm của
phương pháp tư tưởng của Người là luôn luôn nắm vững quá
trình tư duy biện chứng, nắm vững một cách chính xác, và cùng một lúc, tính phổ
biến cũng như tính đặc thù”. Để xây dựng một chế độ mới, Hồ Chí Minh đã xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
Quán triệt quan điểm của
C.Mác: "Ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ
mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy", Hồ
Chí Minh luôn luôn xuất phát từ
thực tiễn dân tộc và thời đại để định
hướng cho tư duy và hành động. Trong xây
dựng nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân, phương pháp biện chứng giúp Hồ Chí
Minh
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước, tránh
giáo điều, rập khuôn,
đồng thời cũng tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại.
Tiếp thu những
luận điểm cơ bản, phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định phương pháp bạo lực cách mạng là tất
yếu để giành và giữ chính quyền. Sau khi đập tan nhà nước thống trị là công cụ
của đế quốc và phong kiến để áp bức nhân dân, cần thiết phải thiết lập một nền
chuyên chính thực sự, cùng với nó là các lực lượng bạo lực trấn áp để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, ý đồ "khôi
phục chính quyền và chế độ tư hữu của bọn lóc bột". Chỉ có lực lượng công an, quân đội, cảnh
sát ra đời mới có thể áp dụng và sử dụng những biện pháp đặc biệt, nghiêm ngặt, những phương tiện thủ
đoạn đặc biệt để đấu tranh có hiệu quả với mọi sự kháng cự, chống đối, phá hoại
của bọn phản cách mạng. Người viết: “Cách mạng Tháng Tám thành công, ta lập ra
chính phủ mới, quân đội, công an, toà án, pháp luật mới của nhân dân để chống
kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân”. “Dân chủ và chuyên chính đi đôi với
nhau. Muốn dân chủ thực sự thì phải
chuyên chính thực sự, vì không chuyên chính thực sự, bọn thù địch sẽ làm hại
dân chủ của nhân dân, vì nhân dân có tin yêu công an thì mới giúp công an
thực sự chuyên chính với địch”.
Tuy nhiên, từ phân tích những
mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam, thấy được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc, xuất phát từ đặc
trưng riêng có trong giá trị tinh thần truyền thống người Việt - chủ nghĩa yêu
nước chân chính là động lực lớn để xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đấu tranh
giai cấp và chuyên chính vô sản. Nếu lý luận Mác-Lênin khẳng định việc giải phóng giai cấp được đặt lên hàng đầu, “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”, thì Hồ Chí Minh lại kết hợp giữa yêu cầu giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp,
trong đó “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Vì
vậy, trong khi Lênin nhấn mạnh
chuyên chính của giai cấp vô sản thì Hồ Chí Minh quan niệm
chuyên chính là chuyên chính của nhân dân.
Người khẳng định:
“Nhà nước cũ nằm trong tay đế quốc và phong kiến, tính chất nó là đế quốc và
phong kiến, là phản động. Nhà nước ta ngày nay là nằm trong tay nhân dân chống
đế quốc và phong kiến. Tính chất nó là nhân dân dân chủ chuyên chính. Nhân dân
là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đoàn kết lại, bầu ra chính
phủ của mình. Đối với nội bộ nhân dân thì thực hành dân chủ. Đối với đế quốc,
phong kiến và lũ phản động, thì thực hành chuyên chính chống lại chúng, đàn áp
chúng”[1].
Bằng phương pháp
biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, giữa cái riêng
với cái chung, khẳng định tính chất của nhà nước ta là nhà nước nhân dân dân
chủ chuyên chính, Hồ Chí Minh đã giải quyết khoa học, sáng tạo nhiều vấn đề vấn
đề bản chất của Công an nhân dân Việt Nam.
Về lý luận, công an nói chung
đều là công cụ chuyên chính của một nhà nước nhất định, bảo vệ lợi ích cho một
nhà nước nhất định, cho nên bản chất giai cấp của nhà nước sẽ quyết định bản
chất giai cấp của lực lượng công an. Nhà nước ta là nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân. Công an nhân dân
Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời mang tính nhân dân sâu
sắc.
Bản chất giai cấp
công nhân của công an Việt Nam thể hiện ở chỗ công an phải “phục tùng sự lãnh
đạo của Đảng từ trên xuống dưới”, “công tác công an phải gắn chặt với
đường lối chính trị của Đảng. Nếu thoát
ly đường lối chính trị của Đảng thì khéo mấy cũng không hiệu quả”. Công an phải
thường trực chiến đấu, kiên quyết đấu tranh với tội phạm: “Công an đánh giặc
thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hoà bình càng nhiều việc hơn".
Công an cần “phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tức là hãy nghĩ đến lợi ích
chung, lợi ích toàn dân trước đã, phải chống chủ nghĩa cá nhân”.
Tính nhân dân của
Công an Việt Nam là sự khác biệt cơ bản của trong so sánh về bản chất với các
cơ quan cảnh sát, công an các nước khác. Theo Hồ Chí Minh, “Công an của ta là Công
an nhân dân, vì dân phục vụ và dựa vào dân mà làm việc”. Vì dân, phục vụ dân
nên "Làm công tác chính quyền, công an hay quân đội đều làm đầy tớ của dân
cả, vì chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do dân làm chủ”. Dựa vào dân
là bởi bảo vệ an ninh trật tự là sự nghiệp của toàn dân, “khi nhân dân giúp đỡ
ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn
toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.
2. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, xác định rõ bạn - thù
Theo quan điểm macxít, quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng
duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu
tranh để đi tới chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của
vận động và phát triển.
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác
nhau: có mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và
thứ yếu, đối kháng và không đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện
để nhận thức đúng sự vật. Trong đấu tranh bảo
vệ an ninh trật tự, có nhận thức, phát hiện đúng mâu
thuẫn mới xác định rõ ràng, khoa học đâu là bạn đồng minh, đâu là kẻ thù để đề ra chủ
trương, biện pháp giải quyết đúng đắn.
Hồ Chí Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức,
phát hiện và xử lý mâu thuẫn. Trong quá trình bôn ba
tìm đường cứu nước, Người đã nhận thấy mâu thuẫn lớn nhất trên thế giới lúc bấy
giờ là mâu thuẫn giữa những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, không phân
biệt màu da, dân tộc, không phân biệt châu Á hay châu Âu. Người nói: “Dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột”. Sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản không trừ một dân tộc nào,
không phân biệt người vô sản ở chính quốc với người vô sản ở thuộc địa bởi chủ
nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc
với người vô sản ở thuộc địa. Do chỉ rõ mâu thuẫn nên Hồ Chí Minh bao giờ cũng
chỉ đúng kẻ thù. Vượt qua hạn chế của các phong trào yêu nước chống Pháp trước
đây, Người phân biệt thực dân Pháp là kẻ thù của cách mạng với những người lao
động Pháp, đồng minh của cách mạng giải phóng dân tộc. Người rất khâm phục các
cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưng chỉ ra sai lầm trong chủ trương cứu nước
của các ông là chưa phân biệt rõ bạn thù. Vì chưa phân biệt rõ bạn thù nên: Cụ
Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đuổi hổ ra cửa
trước, rước beo vào cửa sau”; Cụ Phan Chu Trinh chủ trương “Ỷ Pháp cầu tiến”
chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”.
Vận dụng phép biện chứng duy
vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã
hội phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai
cấp) và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm
lược Pháp (mâu thuẫn dân tộc). Tuy xã hội Việt Nam bấy giờ tồn tại hai mâu
thuẫn cơ bản, nhưng mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành mâu thuẫn chủ yếu
là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và bọn tay sai. Từ mâu
thuẫn chủ yếu đó, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề nổi lên hàng đầu, trở
thành nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về động
lực vĩ đại và duy nhất thúc đẩy xã hội Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước chân
chính, Hồ Chí Minh đã nêu lên đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc,
mở rộng đến biên độ tối đa các lực lượng có thể tập hợp được tạo thành sức mạnh
làm nên Cách mạng tháng Tám. Thắng lợi đó là sự thể hiện phép biện chứng của Hồ
Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, khẳng định tính đúng đắn,
sáng tạo của Hồ Chí Minh trong phân biệt rõ bạn thù và thêm bầu bạn, bớt kẻ
thù.
Hồ Chí Minh linh hoạt và tùy vào hoàn cảnh
lịch sử cụ thể để xác định mâu thuẫn. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, khi bọn
đế quốc và bọn phong kiến Việt Nam cấu kết với nhau để áp bức bóc lột nhân dân
Việt Nam, thì Người xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc
phong kiến. Song khi điều kiện thay đổi là vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ
II khi Nhật nhảy vào Đông Dương thì mâu thuẫn chủ yếu mà người xác định là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và phát xít Nhật. Như vậy, qua
mỗi sự chuyển biến lại hình thành những mâu thuẫn mới, nhưng Hồ Chí Minh luôn
chỉ ra được các mâu thuẫn cụ thể làm cho cách mạng Việt Nam bao giờ cũng xác
định được mục tiêu cụ thể, cô lập được kẻ thù, tranh thủ được các lực lượng yêu
chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
3.
Biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn biến"
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu
sắc của triết học phương Đông, xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do
điều lý (quy luật) chi phối, nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều
khiển được mọi biến hoá của trời đất (hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất
biến chế ngự được cái vạn biến, lấy tĩnh chế động, lấy nhu thắng cương...
Phép biện chứng duy vật macxít cũng đã đề
cập đến các cặp mâu thuẫn và thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ
giữa bất biến
và vạn biến
trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu từ trong triết học
phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở phương
Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: "Vạn biến như lôi, nhất tâm
thiền định", ý nói cứ lấy nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước)
thì có thể đối phó với vạn biến (dù có dữ dội như sấm sét).
Vậy ta hiểu "dĩ bất biến ứng vạn
biến" mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? Theo cách nói của triết học, có thể
hiểu "bất biến" là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự nhiên, xã hội, tư
duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất biến, còn "vạn biến" là hiện
tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật mà
lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra
quy luật tương ứng.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ
dặn lại cụ Huỳnh có một câu: "Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn
biến". Ta hiểu đó là Người nói đến mối quan hệ giữa mục tiêu và phương
pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu của chúng ta là độc lập, thống nhất của
Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, đó là điều bất biến còn phương pháp -
sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá đa dạng, thay đổi linh hoạt, nhưng
không được xa rời cái bất biến. Người nói: Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn
là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững
chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Các công tác phải phối hợp và liên
hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục, v.v.. Mỗi công tác phải hợp với
từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh”[2].
Biện chứng giữa cái “bất biến” và cái “vạn
biến” được Hồ Chí Minh thể hiện trong những
quan điểm về bảo vệ an ninh trật tự. Ý nghĩa
sâu xa của triết lý biện chứng này là trong công tác công an nên nắm giữ cái lớn lao, đừng có sa vào những cái
vụn vặt nhất thời, nên đứng ở mấu chốt (cái bất
biến) mà quan sát, từ đó ứng phó với sự biến đổi của tình huống. Nói cụ thể, trong công tác bảo vệ an ninh trật
tự, đấu tranh với âm mưu, hoạt động phản cách mạng phải nhận ra đâu là bản thể trong cái hiện tượng, đâu là
cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, đâu là cái không thay đổi trong cái thay đổi,
đâu là cái toàn thể trong cái cục bộ, đâu là cái bất biến trong cái vạn
biến,...; còn nếu không, rất dễ lạc vào cái mê cung, lạc vào rừng rậm của những
sự kiện lẻ tẻ, vụn vặt mà bị động, chạy theo sự kiện không
biết đường ra.
Tiếp thu tinh hoa văn hóa
phương Đông “trước hết hãy chiếm lấy lòng dân, sau mới chiếm thành trì của
địch”, kế thừa bài học giữ nước của dân tộc: “khoan thư sức dân để làm kế sâu
rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”, Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh
bảo vệ an ninh trật tự có cái “bất biến” đó là sự ủng hộ của dân, sức mạnh của
dân khi được giác ngộ, tổ chức lại. Nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công
nhiều, nhân dân giúp đỡ ta ít thì thành công ít, nhân dân giúp đỡ hoàn toàn thì
thắng lợi hoàn toàn. Theo Người, “Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có mấy
chục triệu tai mắt tay chân. Biết dựa vào dân thì việc gì cũng xong”. Cái mấu
chốt quyết định thắng lợi của bảo vệ an ninh trật tự là “lòng dân”: “Công tác
công an có nhiều bí mật. Trong cuộc đấu tranh có nhiều việc ta giấu địch và
địch cũng giấu ta, nhưng có việc ta không giấu mà địch vẫn không học nổi”[3].
“Trong công tác, kẻ địch cũng rút kinh nghiệm, cho nên địch có cải tiến công
tác của nó, nhưng có một điều cơ bản nó không học nổi, đó là học lấy lòng dân”[4].
Rõ ràng, củng cố thế trận lòng dân, dựa trên nền tảng nhân dân chính là chăm
sóc và làm sâu gốc, bền rễ cái bất biến, cái tĩnh để ứng phó với cái vạn biến
là sự thay đổi của âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Trong kháng chiến chống Mỹ,
khi đế quốc Mỹ và tay sai tung gián điệp biệt kích ra phá hoại miền Bắc. Được
báo cáo tình hình về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của địch, Hồ Chí
Minh đã cho chỉ thị ngắn gọn: “Các chú phải quét nhà cho sạch để sẵn sàng đón
loại khách không mời mà đến”. Tư tưởng thiên tài của Người cũng chính là phương
châm phòng chống gián điệp biệt kích mà Đảng ta đề ra: “giữ bên dưới là chính,
giữ bên trong là chính”. Có thể nói, đây là sự thể hiện tư tưởng biện chứng “dĩ
bất biến ứng vạn biến”: giữ vững chắc nội bộ, tạo nên bức tường đồng vách sắt,
tạo mạng lưới “thiên la địa võng” nhân dân để chủ động phòng ngừa, phát hiện,
tấn công địch./.
NGUYỄN CAO SƠN
Nguồn: Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị quân sự - Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, số 4/2015.
0 Nhận xét