GS SONG THÀNH
1.Đối tượng nghiên cứu
Hồ Chí Minh học có ba bộ phận. Các bộ môn tiểu sử Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng, tấm gương của Người vào cuộc sống đều có đối tượng nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau, song đều liên quan mật thiết với nhau, nên có thể nói, về cơ bản là thống nhất với nhau.
Dù nghiên cứu tiểu sử hay tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm cách vận dụng vào cuộc sống, người nghiên cứu đều phải tìm hiểu về quê hương, gia đình, dân tộc và thời đại Hồ Chsi Minh đã sống và hoạt động, về các nguồn tư tưởng và văn hoá đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh, đã góp phần hình thành nên tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách của Người – nói chung là những phẩm chất và năng lực phi thường của một lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh trong các công trình và tác phẩm của Người. Những tư tưởng đó được Người đưa ra để hành động nên cũng được quán triệt trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mà Hồ Chí Minh là người đứng đầu. Ngoài ra, tư tưởng đó còn có thể được tìm hiểu thông qua các tác phẩm, bài viết của những đồng chí và học trò gần gũi của Người đã trực tiếp lĩnh hội và quán triệt tư tưởng của người thầy vĩ đại trong lĩnh vực hoạt động của mình.
Tất cả những vấn đề nêu trên, trực tiếp hay gián tiếp, đều có thể xem là đối tượng nghêin cứu của chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Trong những nội dung đó cần tập trung đi sâu, làm rõ mấy khía cạnh cơ bản sau đây: con người Hồ Chí Minh, cuộc đời Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức – lối sống, phương pháp – phong cách Hồ Chí Minh…
2.Phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh học
Hồ Chí Minh học là một chuyên ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng, do đó nó cũng có những nguyên tắc phương pháp luận và hệ thống phương pháp nghiên cứu riêng, xuất phát từ đối tượng và phù hợp với đối tượng. Phương pháp luận và hệ thống phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh là một chuyên đề rộng lớn, cần được trình bày thành những chuyên đề riêng. Bài viết này chỉ đề cập những vấn đế có ý nghĩa phương pháp luận chung cần nắm vững trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
a) Nắm vững phương châm “lý luận phải luôn luôn gắn liền với thực tế”. Ở đây, thực tế được khuôn trong phạm vi: thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; thực tế dân tộc và thực tế phát triển của thời đại. Để thực hiện tốt phương châm này, đòi hỏi người nghiên cứu cần có tinh thần độc lập suy nghĩ, đào sâu nghiên cứu, mạnh dạn trao đổi và thảo luận, tranh luận để nhận thức sáng tỏ vấn đề. Học phải đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế, để tu dưỡng tư tưởng, đạo đức, lối sống, học để làm theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.
b) Nắm vững các mối quan hệ sau đây trong nhận thức và lý giải tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết giải phóng giai cấp vô sản ở châu Âu vào thực tiễn một nước thuộc địa nửa phong kiến ở châu Á, trước hết nhằm giải phóng dân tộc để sau đó tiến lên CNXH. Mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ giữa cací chung và cái riêng.
Thứ hai, mối quan hệ giữa kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo. Trong lịch sử các học thuyết hay trào lưu tư tưởng đều bao hàm các thời kỳ và những con người tiêu biểu với công lao to lớn để sáng lập, đặt nền móng, kế thừa, bổ sung, nâng lên tầm cao mới, phát triển, hoàn thiện bằng những sáng tạo mới.
Trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh không phải chỉ có kế thừa, vận dụng mà còn bổ sung, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin bằng những sáng tạo mới, xuất phát từ điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam. Do đó, trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần làm rõ: cái gì Hồ Chí Minh đã thâu hoá chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo, biến thành tư tưởng của mình, cái gì sinh thời Mác, Ăngghen, Lênin, do thực tiễn chưa đặt ra, các ông chưa đề cập hoặc chưa có điều kiện đi sâu, nay Hồ Chí Minh xuất phát từ thực tiễn dân tộc và thời đại, đã đặt ra và giải quyết thành công. Đó là những luận điểm của Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm và đóng góp vào kho tàng lý luận Mác – Lênin. Nếu không làm rõ được sự vận dụng sáng tạo và phát triển của Hồ Chí Minh cũng tức là không chứng minh được sự cần thiết phải nêu tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Có hai khuynh hướng cần phải tránh: một là, tầm thường hoá tư tưởng Hồ Chí Minh không tự giác, cho rằng Người chỉ nói và viết về những điều cụ thể, thông thường, ít có tính lý luận; hai là, lý tưởng hoá tư tưởng Hồ Chí Minh, đề cao quá mức, cái gì cũng cho là mới, là sáng tạo, vĩ đại, đỉnh cao! Nên nhớ, Hồ Chí Minh rất khiêm tốn, lúc nào Người cũng chỉ coi mình là người học trò nhỏ của Mác, Lênin và các nhà tư tưởng lỗi lạc khác của nhân loại.
Hai khuynh hướng trên đây, tuy không phải là phổ biến, nhưng trong nói và viết về Hồ Chí Minh, có lúc, có người không tránh khỏi rơi vào phiến diện, cực đoan một cách không tự giác, nên cũng cần nêu lên để đề phòng.
Thứ ba, mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối, quan điểm của Đảng ta và Quốc tế cộng sản. Xét trong lịch sử thì những quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta là thống nhất, chứ không phải là đồng nhất. Người là lãnh tụ sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tinh hoa tư tưởng – văn hoá dân tộc và thực tiễn cách mạng nước ta, do đó đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ của cách mạng Việt Nam, vì vậy, Đảng ta đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn cách mạng, rõ nhất là trong 10 năm đầu mới thành lập, do trình độ nhận thức lý luận và hiểu biết thực tế khác nhau, giữa Hồ Chí Minh và một số đồng chí đứng đầu Trung ương lúc đó có sự lý giải và vận dụng không giống nhau trong một số vấn đề cụ thể về sách lược cách mạng của Việt Nam. Đó là điều bình thường, ở Đảng nào cũng có. Nhờ có sự ứng xử đúng đắn của Hồ Chí Minh, nên sự khác nhau tuy có ảnh hưởng nhất định đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nhưng chưa gây ra những tác hại nghiêm trọng. Uy tín của vị lãnh tụ khai sáng vẫn chiếm vị trí tuyệt đói trong Đảng và dân tộc. Những tư tưởng đúng đắn của Người có một thời gian bị ngộ nhận, nhưng thực tiễn đã chứng minh chân lý thuộc về Người. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã xác nhận vai trò kim chỉ nam của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhân tố cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Tư tưởng đó với đường lối, quan điểm của Đảng ta là thống nhất. Vì vậy, cần tránh khuynh hướng đi tìm sự khác biệt, mắc vào âm mưu của kẻ thù muốn chia rẽ Hồ Chí Minh với Trung ương Đảng, hoặc giữa một số ủy viên Trung ương.
Về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế cộng sản, trước hết cần khẳng định công lao to lớn của Quốc tế Cộng sản trong việc đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam về nhiều mặt, nhất là về xây dựng tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cho Đảng ta, trong đó có Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản – nhất là trong 10 năm đầu sau thành lập, do chưa có hiểu biết về tính hình phương Đông nên có lúc đã đánh giá sai về sắp xếp lực lượng cách mạng ở thuộc địa, đã đề ra những chủ trương không sát hợp, không thấy vấn đề cấp bách ở thuộc địa là vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, nên đã đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghãi yêu nước và tinh thần dân tộc, vai trò của chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh từ người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, mang theo khát vọng giải phóng dân tộc, coi chủ nghĩa dân tộc của người bản xứ là một động lực to lớn của đất nước. Do đó Người chủ trương đoàn kết tất cả những người có tinh thần yêu nước, chống đế quốc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc. Chủ trương này của Người trái với đường lối “giai cấp chống giai cấp” của Quốc tế cộng sản lúc bấy giờ, nên đã bị phê phán. Đồng chí Trần Phú được cử về họp Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, ra luận cương chính trị, thay thế Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-1930 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Vì lợi ích của Đảng, với ý thức tổ chức kỷ luật cao, Người nghiêm chỉnh chấp hành, không tranh luận. Do đó, cần hiểu sự khác biệt giữa Nguyễn Ái Quốc với Trần Phú, Hà Huy Tập… thực chất là phản ánh nhận thức khác nhau giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản, chứ không phải chỉ là với các đồng chí của mình.
Thứ tư, mối quan hệ giữa khái quát và mô tả trong nghiên cứu và trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, cần phân biệt tư tưởng Hồ Chí Minh như là đối tượng nghiên cứu với tư tưởng Hồ Chí Minh như là một bộ môn của Hồ Chí Minh học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh với ý nghĩa là sản phẩm của tư duy Hồ Chí Minh được hình thành trong quá trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo cách mạng, là một hiện tượng khách quan, cần được xem xét ở mặt bản thể luận, nghĩa là người nghiên cứu trước hết phải mô tả xem nó là cái gì, có diện mạo như thế nào, rồi sau đó mới tiến hành phân tích đánh giá, rút ra ý nghĩa, giá trị của nó đối với dân tộc và thời đại.
Còn tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một bộ môn của Hồ Chí Minh học, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh (khách thể) làm đối tượng nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, từng bước xây dựng lên thành một khoa học. Tuy nhiên, nó không thể một bước trở thành khoa học, mà phải có thời gian, có sự đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước về tổ chức, xây dựng đội ngũ, cơ sở vật chất cho nghiên cứu, đào tạo…
Hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã qua bước nghiên cứu khai phá, đang chuyển dần sang bước thứ hai, đưa nó lên thành một khoa học. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc lĩnh vực tư tưởng – lý luận, không phải lịch sử. Nếu nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh mà cứ na ná như giảng dạy lịch sử Đảng thì là lầm lẫn về tính chất, chức năng và nhiệm vụ của chuyên ngành. Tư tưởng – lý luận đòi hỏi phải khái quát chứ không phải chỉ trình bày sự kiện. Biên soạn giáo trình, bài giảng phải giáo khoa hóa kết quả nghiên cứu thành hệ thống luận điểm, tức là đòi hỏi phải khái quát, cô đọng, có tính lý luận, không được rơi vào liệt kê tư liệu, kể lể tràn lan. Thực hiện được điều này là khó, bởi Hồ Chí Minh vốn không có nhiều bài viết, tác phẩm về lý luận, cũng không trình bày tư tưởng của mình dưới dạng các bài như các nhà triết học phương Đông.
Vì vậy, tìm ra được một cách chính xác hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh về một vấn đề nào đó là điều không đơn giản, khó thấy ngay một lúc, nên cũng khó tránh rơi vào mô tả. Đó là điều cần ý thức được để đề phòng. Mặt khác cũng cần tránh xuất phát từ một cái khuôn có sẵn, đem úp vào Hồ Chí Minh, rồi đi tìm một vài câu thích hợp để minh họa. Đọc những bài ấy, người đọc không thấy Hồ Chí Minh đâu, chỉ thấy ý kiến áp đặt của tác giả.
Do đó, ở bước đầu nghiên cứu Hồ Chí Minh, mô tả và trích dẫn Hồ Chí Minh là điều không thể thiếu, một yêu cầu không thể rơi vào suy diễn, áp đặt.
Cuối cùng, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi với tổng kết, rút ra được nhận định về bản chất và đặc điểm tư tưởng của Người, tức là làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng – giữa chủ nghĩa mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một yêu cầu quan trọng về nhận thức mà các bài giảng cần làm rõ.
(Tạp chí Lý luận chính trị – Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia HCM – tháng 3/2008
0 Nhận xét