Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về "dân vận khéo" trong thực tế dân vận của Học viện An ninh nhân dân

09:04 |

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân vận khéo” 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác dân vận, theo Người “dân vận khéo” sẽ tạo nên nguồn sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đây chính là nguồn lực nội sinh quyết định những thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến thần thánh, cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Muốn huy động được nguồn sức mạnh vĩ đại này phải quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”, phải dân vận cho thật khéo, theo Người để làm được điều đó thì “cán bộ phải đi trước, làng nước theo sau” nghĩa là muốn làm cho dân phục, dân tin yêu, dân làm theo thì cán bộ phải là những người nêu gương, những người đi đầu. Đồng thời Người cũng nhắc “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” để nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ về trách nhiệm với dân, phải tận tụy phục vụ nhân dân, không tơ hào cây kim, sợi chỉ của nhân dân. Muốn vậy phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là quan trọng hàng đầu. Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân[1].
Ngày 15/10/1949, trên Báo Sự Thật, số 120 đã đăng bài báo “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (với bút danh X.Y.Z). Bài báo Dân vận là tác phẩm tiêu biểu nhất, điển hình nhất về phong cách phương pháp dân vận Hồ Chí Minh. Người khẳng định “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; công việc đổi mới và sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân; chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến xã đều do dân cử ra, tổ chức nên; tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Cũng trong bài báo này Người kết luận: “Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Cả cuộc đời cách mạng của Người theo đuổi mục tiêu tối thượng là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Cả cuộc đời Người mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, nhận thức rõ vai trò của nhân dân đối với cách mạng Việt Nam và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này. Người đã thể hiện tư tưởng này ngay trong Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo[2]. Điều thứ 32 Hiến pháp năm 1946 cũng quy định “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết… Như vậy, trong tư tưởng của Người luôn lấy dân làm gốc, mọi việc đều tôn trọng ý kiến của dân, đều xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân quyết định. Người khẳng định rất rõ nội hàm về dân vận “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho… Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công[3].
Người rất quan tâm đến chất lượng thực tiễn của công tác dân vận, Người nhắc “...Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước[4] Muốn cách mạng thành công thì Ðảng phải vững mạnh, phải dựa vào dân, tổ chức vận động nhân dân tham gia và lãnh đạo nhân dân thực hiện những nguyện vọng, lợi ích thiết thực cho nhân dân. Nước phải lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân vận khéo khẳng định “nói đi đôi với làm” là “dân vận khéo”, “Cần kiệm, liêm chính” là dân vận khéo; “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì hại đến dân thì hết sức tránh” là dân vận khéo; “cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân[5]” là dân vận khéo. Người đã dạy “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Dân vận khéo trái ngược với căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, quan liêu, cậy quyền, cậy thế, tư túng bè phái, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí…
Quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là chỉ dẫn cơ bản về phương pháp cho mọi cán bộ, đảng viên khi tiến hành công tác vận động quần chúng. Người cho rằng: “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”. Bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng”[6].
Cán bộ “dân vận khéo”, theo Hồ Chí Minh, đó phải là những người có kỹ năng nghiệp vụ. Kỹ năng ấy bao gồm: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Nghĩa là phải vận dụng “ngũ quan”, hiểu rõ thực tế, nói phải đi đôi với làm. Phải có óc nghiên cứu để nắm vững bản chất của con người, của sự việc. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở: “Dân vận khéo” là phải tránh bệnh chủ quan, phải phát huy dân chủ. Bởi theo Người: “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến[7]. Và “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên[8]
Thực tế cho thấy, ở đâu và lúc nào làm tốt công tác dân vận thì tập hợp được quần chúng nhân dân, tích cực tham gia và đạt kết quả toàn diện, vững chắc. Ngược lại, nơi nào xem nhẹ công tác dân vận, cán bộ xa rời quần chúng nhân dân, quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm, thiếu đạo đức, không lắng nghe, tôn trọng và không quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân… thì nơi ấy sẽ rất khó thực hiện đúng và đưa ra chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với người dân, sẽ không thể nào có kết quả cao.
Hơn 80 năm qua, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đánh giá công tác dân vận thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2. Vận dụng trong chỉ đạo, thực hiện công tác thực tế dân vận của Học viện An ninh nhân dân
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận đối với hoạt động nghiệp vụ của lực lượng CAND nói riêng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung. Ngay từ những ngày đầu lập trường, Học viện ANND tiền thân là Trường Công an Trung ương đã quán triệt sâu sắc tư tưởng “dân vận” và “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo đó, mỗi cán bộ, giảng viên, học viên luôn học tập và quán triệt sâu sắc quan điểm “lấy dân làm gốc”. Trong công tác và hoạt động thực tiễn luôn gần dân, dựa vào dân để chiến đấu và chiến thắng với quan điểm “nhân dân là tai mắt của công an”. Trong công tác công an, tư tưởng “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong rèn luyện kỹ năng “dân vận khéo” cũng như rèn luyện bản lĩnh chính trị, nhân cách, đạo đức người sỹ quan công an cách mệnh. Đây cũng là nhân tố quyết định thành công trong xây dựng thế trận an ninh nhân dân và phong trào toàn dân bảo vệ An ninh tổ quốc hàng chục năm qua.
Quán triệt tư tưởng “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện ANND đã chỉ đạo các Khoa, Bộ môn nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy về công tác dân vận. Đồng thời đặc biệt coi trọng hoạt động đưa sinh viên đi thực tế dân vận “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nhân dân. Để thực hiện thành công hoạt động này, Ban giám đốc Học viện đã chỉ đạo Bộ môn Lý luận chính trị mạnh dạn điều tra cơ bản, tham mưu lựa chọn những địa bàn trọng điểm về an ninh quốc gia để triển khai công tác thực tế dân vận. Qua hàng chục năm thực hiện công tác dân vận, Học viện ANND đã đưa hàng chục khóa sinh viên Học viện đến thực tế dân vận thành công tại nhiều địa bàn trọng điểm. Từ đó, đã gắn “học đi đôi với hành” góp phần quan trọng trong đào tạo hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ công an “vừa hồng vừa chuyên” đáp ứng hiệu quả yêu cầu công tác thực tiễn mà Đảng, Nhà nước và Ngành giao phó. Đồng thời, tổng kết bổ sung lý luận “dân vận khéo”, phục vụ hiệu quả công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong học viện.
Với vai trò là cơ quan chủ quản trong thực hiện công tác thực tế dân vận, Bộ môn Lý luận chính trị đã phối hợp với Phòng Quản lý sinh viên trực tiếp chỉ đạo công tác thực tế dân vận tại các địa bàn được chọn.. Đồng thời chú trọng xây dựng và phát triển mối quan hệ phối hợp với các cơ quan Đảng, Chính quyền, Đoàn thể cơ sở nơi có sinh viên đến thực tế dân vận. Sự phối hợp nhịp nhàng trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện chính là nhân tố quan trọng đảm bảo thành công trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện thực tế dân vận tại các địa phương trong hàng chục năm qua.
Trong công chỉ đạo, thực hiện công tác thực tế dân vận, Bộ môn Lý luận chính trị đã quán triệt sâu sắc quan điểm “dân vận khéo” của chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoạt động giảng dạy trên lớp và làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến trước khi triển khai các khóa sinh viên xuống các địa bàn được chọn. Đồng thời cử cán bộ có kinh nghiệm trực tiếp quán xuyến, chỉ đạo sinh viên thực hiện nhiệm vụ dân vận. Những kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn công tác dân vận tại các địa bàn phía Bắc của Học viện ANND, cũng như căn cứ kết quả trao đổi kinh nghiệm qua hội thảo giữa Bộ môn Lý luận chính trị - Học viện ANND và Bộ môn Mác Lênin - Học viện CSND về công tác đưa sinh viên đi thực tế dân vận tại cơ sở trong năm 2014 đã cho thấy Học viện ANND là đơn vị dẫn đầu về phong trào và kinh nghiệm trong thực hiện xuất sắc nhiệm vụ “dân vận”, xứng đáng là trường trọng điểm đầu ngành của lực lượng CAND.
Để nhận thức và vận dụng sâu sắc hơn nữa tư tưởng “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào chỉ đạo, thực hiện công tác dân vận, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ dưới đây.
- Thứ nhất, cần tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”,.. đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân vận khéo” cho cán bộ, giáo viên và sinh viên toàn Học viện. Từ đó, giúp sinh cán bộ, giáo viên và sinh viên nhận thức sâu sắc hơn nữa về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thực tế dân vận đối với sự nghiệp chính trị mà Đảng, Nhà nước và Ngành giao phó. Hình thành cho họ tư tưởng gần dân, lấy dân làm gốc, kính trọng nhân dân, từ đó loại bỏ dần những tư tưởng quan liêu, hách dịch, cửa quyền, hạch sách và nhũng nhiễu nhân dân.
- Thứ hai, cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Công an, Ban Giám đốc Học viện ANND trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai công tác thực tế dân vận tại cơ sở. Cơ quan chủ quản cần phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình trong tham mưu cho Ban Giám đốc Học viện lựa chọn dân vận ở những địa bàn trọng yếu, phức tạp, những vùng dân tộc thiểu số, những nơi có nhiều kẻ địch thường xuyên lợi dụng trình độ dân trí thấp của đồng bào để chống phá cách mạng Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho sinh viên cọ xát với thực tiễn, bổ sung lý luận. Đồng thời, qua thực tiễn xây dựng được “thế trận lòng dân”; “thế trận an ninh nhân dân” vững chắc; xây dựng hình tượng người cán bộ công an nhân dân tốt đẹp trong mắt nhân dân, loại bỏ được những định kiến, những luận điệu tuyên truyền bất lợi của các thế lực thù địch về hình tượng người chiến sỹ công an cách mạng.
- Thứ ba, cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giảng dạy và tuyên truyền đối với sinh viên toàn Học viện. Mỗi cán bộ, giáo viên, sinh viên cần học tập và nhận thức sâu sắc bài học “nói đi đôi với làm”; “Cần kiệm, liêm chính”; “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì hại đến dân thì hết sức tránh”. Quán triệt tư tưởng gần dân, lấy dân làm gốc, “đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép”, kiên quyết loại bỏ tư tưởng “quan cách mạng”, không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.  Dũng cảm phê bình và tự phê bình, đề cao vấn đề nêu gương, là tấm gương sáng để nhân dân noi theo.
- Thứ tư, cần làm tốt công tác điều tra cơ bản về địa bàn, mạnh dạnh lựa chọn những địa bàn trọng điểm, vùng dân tộc thiểu số,... Cử những cán bộ có kinh nghiệm lâu năm trong công tác thực tế dân vận đi kèm những đồng chí mới. Đồng thời xây dựng và phát huy hơn nữa mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ thực tế tại địa phương với Chính quyền, đoàn thể ở các địa bàn nơi sinh viên đến thực tế dân vận. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan là chìa khóa dẫn đến thành công trong hoạt động thực tế dân vận tại cơ sở.
- Thứ năm, bản thân mỗi cán bộ, giáo viên và sinh viên khi đi thực tế dân vận tại các địa bàn cần thấm nhuần và tuân thủ sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước. Luôn tuân thủ điều lệnh, lễ tiết, tác phong người chiến sỹ công an nhân dân. Có ý thức tôn trọng của công, tích cực rèn luyện ngũ quan“óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Trong “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo... tuân theo khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”. Bất cứ việc to, việc nhỏ,  phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng”.
Những tư tưởng của Người về công tác dân vận là những kinh nghiệm quý báu, những lời răn dạy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong học tập và công tác của Học viện ANND nói chung và công tác nghiệp vụ của lực lượng CAND nói riêng. Vì vậy, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chỉ có đổi mới và làm tốt công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân, cũng như khối đại đoàn kết toàn dân thì mới phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[9].
TRẦN TRUNG HẢI

          Nguồn: Nguyễn Cao Sơn - Nguyễn Việt Hùng (đồng chủ biên): Vận dụng một số nội dụng khoa học chính trị trong công tác công an, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016.


[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2004, Sđd, tập 5, tr.252-253. 
[2] Điều 1 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1946, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội – 2009.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 5, tr. 698-700.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập - tập 5, Tr552 - NXB CTQG - HN- 1995. 
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, tr. 248.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, tr. 699, 244.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, tr. 592.
[9] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Khóa XI .


Xem thêm…

Xây dựng bản chất Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

08:52 |
Trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống phản cách mạng và tội phạm khác, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm xây dựng Công an nhân dân thành đội quân chủ lực, lực lượng nòng cốt của cuộc đấu tranh. Kế thừa tư duy chính trị truyền thống “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, bài học “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”, đồng thời nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quần chúng trong lịch sử và trong cách mạng, Người đã đưa ra luận điểm độc đáo về bản chất Công an nhân dân Việt Nam: “Công an của ta là Công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào nhân dân mà làm việc".  
Về lý luận, công an nói chung đều là công cụ chuyên chính của một nhà nước nhất định, bảo vệ lợi ích cho một nhà nước nhất định, cho nên bản chất giai cấp của nhà nước sẽ quyết định bản chất giai cấp của lực lượng công an. Nhà nước ta là nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân. “Là một bộ phận của cả bộ máy Nhà nước nhân dân dân chủ chuyên chính tiến lên chủ nghĩa xã hội, công an phải bảo vệ dân chủ của nhân dân và thực hiện chuyên chính với những kẻ chống lại dân chủ của nhân dân”[1]. Do vậy, Công an nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của công an Việt Nam thể hiện ở chỗ: Công an phải “phục tùng sự lãnh đạo của Đảng từ trên xuống dưới”, "công tác công an phải gắn chặt với đường lối chính trị của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng thì khéo mấy cũng không hiệu quả”[2]. Công an phải thường trực chiến đấu, kiên quyết đấu tranh với tội phạm: “Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hoà bình lại càng nhiều việc"[3]. Công an cần “phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”, tức là hãy “nghĩ đến lợi ích chung, lợi ích toàn dân trước đã, phải chống chủ nghĩa cá nhân”[4].
Tuy nhiên, nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân thể hiện ở việc Người nhấn mạnh và luôn nhắc nhở về tính nhân dân trong bản chất Công an Việt Nam. Trong so sánh về bản chất với các cơ quan cảnh sát, công an các nước đế quốc, Người nói: "Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân. Chắc các cô các chú cũng nhớ chúng nó là bọn đầu trâu mặt ngựa. Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân"[5].
Công an nhân dân phải vì dân, phục vụ dân bởi bản chất nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân. Người nói: "Các cơ quan của Chính phủ, từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của nhân dân". “Chính quyền của chúng ta là chuyên chính dân chủ nhân dân. Đây là nhân dân chuyên chính để đàn áp bọn thực dân xâm lược và bọn tay sai chống lại chính quyền ấy. Vì quyền lợi chung của đa số nhân dân mà chúng ta chuyên chính với thiểu số bóc lột. Chính quyền của bọn tư bản thì là chính quyền chuyên chính của một thiểu số chống lại đa số. Chính quyền nhân dân có hai lực lượng để bảo vệ nó: đó là quân đội và công an. Làm công tác chính quyền, ở công an hay ở quân đội, đều là làm đày tớ cho nhân dân cả, vì chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ. Làm công an không phải làm "quan cách mạng". Làm công an là để giữ trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”[6].
Để phục vụ dân, công an phải dựa vào dân. Trong 12 điều răn cán bộ, Hồ Chí Minh đã khái quát bằng mấy câu thơ: "Quân tốt, dân tốt, Muôn sự đều nên, Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"[7]. Hồ Chí Minh là người đầu tiên khẳng định nhân dân lao động là lực lượng quyết định sự nghiệp đấu tranh chống phản cách mạng và tội phạm khác nhằm bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự xã hội ở nước ta, nhân dân là nguồn gốc tạo thành sức mạnh vô địch của công an. Người khẳng định: “Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”[8]. "Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn"[9]. Tại Trường Công an trung cấp khoá 2 (1-1951), Người căn dặn : "Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân"[10]. Theo Người, nhân dân có hàng triệu tai mắt thì kẻ địch khó mà che dấu được.
Đường lối quần chúng của Đảng ta là hết lòng hết sức phục vụ quần chúng, liên hệ mật thiết với quần chúng. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định công tác công an phải đi theo đường lối quần chúng. Người dạy: "Phải đi đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp Công an và Công an mới thành công được. Các chú phải thấu suốt chính sách của Đảng và đi đường lối quần chúng", "ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác". Để cho chúng ta nhận thức thật rõ vấn đề đó, Người còn phân tích mối quan hệ giữa biện pháp kỹ thuật (biện pháp nghiệp vụ công an – TG) với biện pháp quần chúng. Người nói: "Vấn đề kỹ thuật trong công tác công an cũng cần, nhưng vấn đề quan trọng nhất là giáo dục, tuyên truyền cho dân, để quản lý tốt tai, mắt, miệng của dân, làm thế nào dân giúp công an để phát hiện địch và giấu địch những điều của ta. Nói cho địch là phải nói dối, nói cho ta thì nói thật. Mắt để phát hiện địch. Tai cũng vậy. Tổ chức tốt quần chúng để giấu không cho địch biết và bảo vệ ta. Cho nên, cần có kỹ thuật nhưng chủ yếu phải dựa vào dân"[11].
Hồ Chí Minh giáo dục công an về hình thức, phương pháp vận động quần chúng trong cuộc dấu tranh bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Người nói: "Phải dựa vào các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân dân trong công việc phòng gian, để nhân dân thiết thực giúp đỡ Công an… Phải thực sự giúp đỡ dân trong công việc chứ không phải là lối ngoại giao qua loa"[12]. "Phải gần gũi với nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được", "Ta quan tâm đến đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ làm theo ta". Bác Hồ đã nghiêm khắc phê phán thái độ tự kiêu, tự đại, xa rời quần chúng, không chịu điều tra nghiên cứu, thiếu ý thức toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng phục vụ nhân dân. Đó là những tác phong hoàn toàn xa lạ với bản chất Công an nhân dân. "Công tác phải đi sâu và thiết thực. Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân thì khuyết điểm mới có thể khắc phục được và ưu điểm mới có thể phát huy được”[13], " Phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách; phải gây quan hệ thật tốt giữa công an và nhân dân"[14].
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, bản chất Công an nhân dân còn phải biểu hiện ở thái độ của Công an đối với nhân dân: "Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an", để đi đến "hiểu Công an, yêu công an, và giúp đỡ Công an". "Phải khuyến khích cho dân phê bình Công an. Trong mười lần phê bình cũng có lần đúng, có lần không đúng. Đúng thì nhận, không đúng thì giải thích", "Phải kính trọng, lễ phép đối với nhân dân" "Phải làm gương mẫu trong mọi việc, tuỳ hoàn cảnh của mình mà gần gũi, giúp đỡ nhân dân, gương mẫu trong lời nói, việc làm, thái độ…”[15]
Nghiên cứu tư tưởng cơ bản của Bác Hồ về bản chất nhân dân của Công an ta có thể rút ra kết luận: Nhân dân là mục đích, là trách nhiệm cao nhất của Công an nhân dân: nhân dân vừa là lực lượng quyết định trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự, vừa là nguồn gốc sức mạnh vô địch, là động lực phát triển Công an nhân dân về mọi mặt: dựa vào quần chúng, liên hệ chặt chẽ với quần chúng vừa là đường lối công tác, là biện pháp rất cơ bản, vừa là phương pháp, tác phong, thái độ, lại vừa là nhân cách, là lẽ sống, là phẩm chất cao quý của Công an nhân dân. Bản chất nhân dân của Công an đã được Bác Hổ khái quát rất cô đọng và sâu sắc: Công an của ta là của dân, vì dân và dựa vào dân.
Để quán triệt tư tưởng Công an nhân dân của Hồ Chí Minh trong tình hình mới, chúng ta phải tích cực, nghiêm chỉnh thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác đấu tranh bảo đảm an ninh, trật tự ra sức hoàn thành tốt cuộc vận động xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh phong trào Bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chúng ta phải đặt vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng đi đôi với bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ một cách thường xuyên, kiên quyết và triệt để hơn nữa, qua phong trào “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh”, học tập, thấm nhuần và thực hiện 6 điều Bác dạy. Đi đôi với giáo dục, xây dựng, biểu dương, phải có phê bình và kỷ luật nghiêm minh. Song, không thể chỉ dừng lại ở giáo dục nâng cao nhận thức, tư tưởng mà vấn đề quan trọng hơn là tổ chức công tác, tổ chức bộ máy, tổ chức lề lối làm việc, xây dựng một hệ thống điều lệnh, điều lệ, quy định thật chặt chẽ, khoa học mới có thể biến nhận thức thành hành động cụ thể, mới có thể kiểm soát, khống chế và làm giảm hẳn được những hành động sai trái với bản chất nhân dân, bản chất giai cấp của Công an nhân dân để ngày càng củng cố lòng tin yêu của quần chúng nhân dân đối với Công an nhân dân chúng ta.
NGUYỄN CAO SƠN
Nguồn: Nguyễn Cao Sơn - Nguyễn Việt Hùng (đồng chủ biên): Vận dụng một số nội dụng khoa học chính trị trong công tác công an, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016.





[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, t.11, tr.427.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.140.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.258.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.248.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.269.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.269.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.502.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.116.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.140.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.599.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.169.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270.
Xem thêm…

Nâng cao hiệu quả công tác công an trong tổ chức, quản lý lễ hội truyền thống hiện nay

08:42 |
                             

 Ảnh: Lễ hội Tràng An - Ninh Bình luôn thu hút du khách tham quan
1. Lễ hội truyền thống Việt Nam và một số biểu hiện sai lệch trong lễ hội thời gian gần đây
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa chung, có tổ chức của cộng đồng, thường được tổ chức vào dịp xuân thu nhị kỳ, trùng với thời điểm nông nhàn của người nông dân. Lễ hội bao giờ cũng bao gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ là nghi thức thờ cúng mang màu sắc tôn giáo, tâm linh, các lễ vật và quy trình tế lễ gắn liền với đặc thù của đối tượng thờ cúng. Phần hội mang tính giải trí, làm sống lại các truyền thống sinh hoạt và vui chơi đã từng ăn sâu vào lối sống của cộng đồng ở từng địa phương. Theo thống kê của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Việt Nam hiện nay có 7699 lễ hội, trong đó có 7039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử, 544 lễ hội tôn giáo,10 lễ hội du nhập từ nước ngoài, còn lại là các lễ hội khác. Với số lượng lễ hội như trên, có thể thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng lễ hội lớn nhất thế giới.
Đặc biệt từ khi quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng (Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 5, khóa VIII, năm 1998) được đưa vào cuộc sống thì các hoạt động lễ hội càng trở nên rầm rộ.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên việc tổ chức, quản lý lễ hội truyền thống hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế, làm biến dạng nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp của các lễ hội truyền thống như:
Thứ nhất, việc kịch bản hóa lễ hội theo ý tưởng của các nhà tổ chức, quản lý làm cho các lễ hội trở nên na ná nhau. Nếu như phần lễ, phần nghi thức được thực hành có sự giống nhau trong các lễ hội (vì theo quy định, điển lệ của các triều đình phong kiến) thì phần hội là phần khác nhau giữa các lễ hội. Phần hội là sự khác biệt, đặc sắc riêng và trở thành sức sống của mỗi lễ hội trong hàng ngàn lễ hội được tổ chức trên cả nước. Trong phần hội, các trò chơi, trò diễn thể hiện nét độc đáo của từng lễ hội. Cùng một trò chơi, loại hình giải trí nhưng ở các lễ hội thì thể thức, nghi thức, mục đích, ý nghĩa tổ chức khác nhau. Nhưng hiện nay, ở nhiều lễ hội, do có cùng kịch bản nên các lễ hội giống nhau về trình tự tổ chức (phần lễ trước, phần hội sau), các trò chơi (số lượng trò chơi, trình tự - thể thức, giải thưởng),… Chính việc kịch bản hóa và hành chính hóa lễ hội đang làm mất dần đi sự độc đáo, bản sắc của từng lễ hội và tính đa dạng, phong phú của kho tàng lễ hội truyền thống Việt Nam.
Thứ hai, lễ hội truyền thống Việt Nam đang bị thương mại hóa. Chủ trương, chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa, lễ hội của Đảng và Nhà nước là đúng đắn nhằm huy động sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần của nhân dân vào việc tổ chức các sinh hoạt văn hóa, lễ hội. Tuy nhiên việc xã hội hóa tổ chức lễ hội bằng cách huy động sự ủng hộ, tài trợ của các doanh nghiệp cũng có mặt trái là nó đang làm thương mại hóa các hoạt động lễ hội truyền thống của Việt Nam. Xu hướng hiện nay thể hiện ở sự kết hợp giữa tổ chức lễ hội với các hội chợ giới thiệu hàng hóa sản phẩm. Việc trưng bày các sản phẩm hàng hóa, băng rôn quảng cáo treo dán tràn lan đã làm mất đi không gian linh thiêng của nhiều lễ hội, mặt bằng tổ chức lễ hội bị thu hẹp để nhường chỗ cho các gian hàng; bên ngoài, thậm chí ở nhiều nơi, ngay cả bên trong không gian các di tích lịch sử - văn hóa, vào mùa lễ hội mọc tràn lan hàng quán phục vụ dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ, trông giữ xe, bán hàng lưu niệm,… tạo nên cảnh nhốn nháo chào mời, chèo kéo, “chặt chém”, tranh giành khách,… Thậm chí ở một số lễ hội, như lễ hội chùa Hương, dọc đường lên chùa là hàng loạt cửa hàng bày bán đặc sản thịt thú rừng, ngược lại hoàn toàn với triết lý hướng thiện, bảo vệ môi trường và giáo lý, giáo luật của đạo Phật. Hay như lễ hội bà chúa kho ở Bắc Ninh, sin sít dọc hai bên đường lên là các sạp hàng bán vàng mã, hương nhang, diêm nến,… nguy cơ gây cháy nổ hỏa hoạn rất lớn. Đặc biệt ở hầu hết các điểm lễ hội lớn, dịch vụ đổi tiền lẻ rất phổ biến, công khai, chủ yếu là các loại tiền mệnh giá 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng và 5.000 đồng.
Thứ ba, sự xuất hiện dày đặc của hệ thống hòm công đức tại các địa điểm tổ chức lễ hội và thói quen đặt tiền ở các địa điểm thờ tự – mặc cả với thần linh. Tất cả các điểm di tích lịch sử, văn hóa tâm linh đều có một hòm công đức. Đây là một biểu hiện đẹp của ý thức góp sức sửa chữa, trùng tu các công trình, thêm tiền hương hoa cho di tích. Tuy nhiên hiện nay, do người dân hiểu sai ý nghĩa của việc bỏ tiền công đức nên xảy ra hiện tượng người dân đặt tiền tràn lan, tại tất cả những nơi có thể đặt được như hòm công đức, ban thờ, ngai thờ, tượng phật, lư hương, gốc cây, giếng nước,… Một cảnh tượng không đẹp, cho thấy rõ tâm lý mặc cả, ngã giá với thần linh của người tham gia lễ hội. Bên cạnh đó, ở nhiều di tích, ban quản lý cũng cho đặt nhiều hòm công đức ở các gian thờ tự, tạo nên khung cảnh không đẹp tại những nơi trang nghiêm, thanh tịnh.   
Thứ tư, các hiện tượng cờ gian bạc lận hoành hành dưới nhiều hình thức. Hội hè là dịp để người dân có thể vui chơi, giải trí sau những ngày lao động mệt mỏi, chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới. Để đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí chính đáng đó, từ xa xưa, cha ông ta đã đưa nhiều trò chơi dân gian vào lễ hội như chọi gà, tổ tôm, cờ tướng, cờ người,… những người tham gia chỉ bỏ một khoản tiền nhỏ, thường là vài đồng tiền lẻ để chơi cho vui, chơi cầu may. Tuy nhiên, hiện nay, các trò chơi giải trí xưa đã bị biến tướng thành những trò chơi có tính chất cá cược, cờ bạc. Bên cạnh đó, cờ bạc trá hình cũng xuất hiện ngày càng phổ biến tại các lễ hội dưới nhiều hình thức khác nhau như: trò chơi trúng thưởng, thách đấu, đặt cược, nhà cái,… Những tay cờ bạc chuyên nghiệp lợi dụng lễ hội để tổ chức tụ tập những người có máu đỏ đen sát phạt nhau ngay tại không gian của lễ hội. Không chỉ tụ tập, thu hút được những người có máu đỏ đen, ham mê cờ bạc mà các hình thức cờ bạc trá hình này còn thu hút một lượng không nhỏ các em học sinh cấp một, cấp hai. Điều đó làm cho tình hình an ninh trật tự ở các điểm diễn ra lễ hội không được đảm bảo.
Thứ năm, các hoạt động mê tín dị đoan, hiện tượng buôn thần bán thánh trở nên phổ biến. Hầu hết các lễ hội ở Việt Nam đều mang đậm tính chất tâm linh. Nói cách khác, tính chất tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh làm nên tính thiêng của lễ hội. Do đó, đi lễ hội để được thỏa mãn nhu cầu tâm linh là một trong những mục đích chính của người tham gia lễ hội. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân nhưng nghiêm cấm các hiện tượng mê tín dị đoan. Tuy nhiên, hiện nay, tại nhiều lễ hội truyền thống các yếu tố mê tín dị đoan vẫn tồn tại, thậm chí còn trở thành một hiện tượng phổ biến như bói toán, xem chỉ tay, xem tướng, cầu cúng – khấn thuê, lên đồng, xóc quẻ,… Tính chất linh thiêng của các lễ hội và các vị thần thánh bị đánh đổi bằng không khí nhốn nháo, trần tục của những kẻ buôn thần bán thánh, lợi dụng lòng tin mù quáng của một bộ phân người dân để trục lợi cho bản thân.
Thứ sáu, nhiều lễ nghi, trò chơi có ý nghĩa tâm linh thiêng liêng đã bị hiểu lầm, tầm thường hóa bởi một bộ phận không nhỏ người tham gia như: đốt tiền vàng, hương nhang bừa bãi; đặt tiền công đức vô tội vạ; chọi gà mang ý nghĩa cầu mưa, cầu nắng bị thế tục hóa, cờ bạc hóa bằng các trò cá cược; tục cướp giò tre trong hội Gióng nhằm thể hiện sự dũng cảm, tinh nhanh và đoàn kết của thanh niên trai tráng, giờ đã bị bạo lực hóa bởi những trò rượt đuổi, phang, đập gậy gộc vào nhau; phát ấn đền Trần mang ý nghĩa khuyến khích tinh thần học hành, cầu toàn cầu thị trên con đường công danh, sự nghiệp nay bị biến thành trò cướp ấn với cảnh tượng chen lấn, xô đẩy, giẫm đạp lên nhau, trèo tường, trèo cây, thậm chí trèo lên cả mái đền trước giờ phát ấn,…
Thứ bảy, trong thời gian gần đây, hiện tượng lễ hội bị nhiều loại đối tượng lợi dụng để kiếm ăn, hành nghề đã trở nên phổ biến. Hiện tượng người già, trẻ nhỏ, người khuyết tật đi theo xin tiền du khách; người bán hàng rong mời chào, chèo kéo khách;… làm cho khung cảnh của các lễ hội trở nên lếch thếch, dễ dấn đến những hiểu lầm trong việc Nhà nước ta thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với các đối tượng đặc biệt (người già, người tàn tật, trẻ em). Và đặc biệt, mùa lễ hội đang trở thành mùa làm ăn của các đối tượng trộm cắp. Lợi dụng dòng người tham gia lễ hội đông đúc, thậm chí chen lấn nhau, các đối tượng trộm cắp thường tổ chức thành từng nhóm nhỏ có từ ba đến năm tên, quan sát, tìm kiếm và áp sát những du khách sơ hở trong việc bảo quản tư trang (điện thoại, ví tiền, đồng hồ, dây chuyền, máy ảnh, máy quay phim,…) rồi móc, giật, chuyền tay nhau đồ để tẩu tán. Hiện tượng này đang trở thành vấn nạn đối với các nhà quản lý văn hóa – lễ hội vì một mặt nó làm cho tình hình an ninh trật tự tại địa bàn diễn biến phức tạp, mặt khác ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài.
Tất cả những biểu hiện trên đã làm mất đi vẻ đẹp và giá trị đích thực, giàu tính giáo dục và nhân văn của các lễ hội truyền thống.
2. Nhận diện nguyên nhân của những biểu hiện sai lệch trong lễ hội thời gian gần đây
2.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nguyên nhân kinh tế: mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ đến mọi mặt của đời sống văn hóa – xã hội của con người. Thói quen mặc cả, ngã giá trong buôn bán, sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường, tiền là thước đo của nhiều giá trị, lối sống thực dụng, bạo lực,… trong đời sống kinh tế và đời sống sinh hoạt thường ngày đã được người dân chuyển tải, thực hành trong đời sống văn hóa tâm linh nói chung và các lễ hội truyền thống nói riêng.
Thứ hai, nguyên nhân văn hóa - xã hội: bản thân các lễ hội truyền thống bao gồm cả các yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực, lạc hậu, cổ hủ. Trải qua những biến đổi cùng lịch sử - xã hội, những yếu tố tiêu cực, lạc hậu, cổ hủ vẫn còn rơi rớt lại, chưa bị xóa bỏ hoàn toàn. Và trong bối cảnh xã hội mới, các yếu tố tiêu cực lại trỗi dậy, thậm chí trỗi dậy mạnh mẽ hơn trước, đặc biệt là yếu tố mê tín dị đoan và cờ bạc trá hình. Lễ hội là nơi tập trung đông người, do đó, việc thực hành các nghi thức hay tham gia lễ hội của người dân chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tâm lý đám đông, a dua, bắt chước.
Thứ ba, nguyên nhân nhận thức: do trình độ nhận thức của con người còn nhiều hạn chế, tri thức về tự nhiên xã hội chưa đi đến tuyệt đối, còn nhiều sự việc hiện tượng vẫn chưa được giải thích khoa học. Do vậy mà một bộ phận không nhỏ vẫn cần bám lấy một thế lực siêu nhiên, tâm linh để giải tỏa nhu cầu hiểu biết về tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên niềm tin tôn giáo tín ngưỡng rất dễ bị biến tướng thành các yếu tố mê tín dị đoan, đặc biệt là với sự trục lợi của các đối tượng “buôn thần bán thánh”, lợi dụng niềm tin mù quáng của người dân. Bên cạnh đó, do trình độ nhận thức, tiếp cận với các nguồn thông tin của người dân còn nhiều hạn chế, nên những hiểu biết của người dân về đặc điểm, tính chất của lễ hội truyền thống không đồng đều, trong đó phần lớn rất mơ hồ. 
2.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, lực lượng Công an chuyên trách văn hóa thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ Công an chuyên trách ở cơ sở (xã, phường). Hiện nay, ở hầu hết các xã, phường chỉ có từ một đến hai cán bộ Công an phụ trách chưa được đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp  văn hóa chính quy. Hơn nữa, đầu việc tại địa phương rất lớn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công việc nói chung và hiệu quả của việc tổ chức các lễ hội truyền thống nói riêng tại các địa phương. Cấp huyện, thị xã cũng tương tự như cấp xã, phường. Cấp tỉnh, đội ngũ cán bộ có đông đảo hơn, được đào tạo tại các trường chính quy nhưng không phụ trách chuyên môn tại cấp cơ sở. Bên cạnh đó, các lễ hội truyền thống có quy mô từ tỉnh trở lên lại không nhiều. Do đó, để phát huy năng lực của đội ngũ này rất khó. Đội ngũ cán bộ Công an và văn hóa chuyên trách về văn hóa cơ sở là những người trực tiếp tham mưu, hướng dẫn cho nhân dân, địa phương tham gia và trực tiếp tổ chức, quản lý các sinh hoạt văn hóa cộng đồng nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng nhưng vừa thiếu về số lượng vừa yếu về năng lực chuyên môn, trình độ quản lý nên dẫn đến những hạn chế, thiếu sót trong tổ chức, quản lý lễ hội thời gian qua là hệ quả tất yếu.   
Thứ hai, các cơ quan hữu quan thiếu sự phối hợp. Tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống không phải là công việc của riêng cơ quan văn hóa mà là công việc chung của nhiều đơn vị, ban ngành khác nhau của địa phương. Trong đó vai trò của lực lượng Công an rất quan trọng, thể hiện ở chức năng tham mưu cho các cấp chính quyền, cơ quan chức năng về công tác tổ chức, quản lý lễ hội. Đồng thời lực lượng Công an là lực lượng trực tiếp lập và thực hiện kế hoạch bảo vệ an ninh trật tự xã hội, an ninh văn hóa tư tưởng trong các lễ hội, đặc biệt là các lễ hội có tính chất liên vùng. Thực tế cho thấy, ở nhiều địa phương, khi tổ chức lễ hội truyền thống, thành lập một ban tổ chức riêng, có sự góp mặt của tất cả ban, ngành, đoàn thể. Tuy nhiên, lại không có sự phân công rõ ràng về chức năng, trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, từng ban, ngành, dẫn đến sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Do đó, việc phối kết hợp giữa các đơn vị rất khó khăn và hiện tượng không sâu sát, buông lỏng trong tổ chức, quản lý lễ hội là điều không tránh khỏi. Đây là lí do chính dẫn đến sự hoạt động chưa thực sự hiệu quả của lực lượng Công an nhân dân.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác của lực lượng Công an trong tổ chức, quản lí lễ hội truyền thống
Một là, ổn định đời sống kinh tế - xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Lễ hội là sản phẩm của ý thức con người, nó phản ánh thực tại khách quan, trước hết là đời sống  kinh tế - xã hội. Vì thế, việc đầu tiên và quan trọng nhất phải làm là tìm mọi cách để ổn định đời sống kinh tế - xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Lực lượng Công an nhân dân phải là lực lượng đi đầu trong công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân, phổ biến các kiến thức phổ thông về khoa học – kỹ thuật, thể chế chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, các chuẩn mực đạo đức và luân lý, quan điểm thẩm mỹ tiến bộ trong thưởng thức nghệ thuật và trong sinh hoạt đời thường. Công tác tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân phải được chuyển tải thông qua các phương tiện truyền thống đại chúng theo cả hai hướng là xây dựng, phổ biến các điển hình, gương sáng và chống các biểu hiện tiêu cực, phản văn hóa trong xây dựng đời sống văn hóa mới nói chung và tổ chức lễ hội. Trong công tác tuyên truyền đặc biệt chú ý đến vai trò, lời nói và tác động của các nhà nghiên cứu khoa học, văn hóa, lịch sử, chức sắc tôn giáo,… có uy tín qua các buổi trò chuyện, tọa đàm, các bài viết, tham luận về lễ hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng như đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí,.... được phát hành vào các khung giờ vàng, được nhiều người quan tâm. Trong việc thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục, lực lượng Công an cần phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan ban ngành khác. Có như vậy chúng ta mới phần nào nâng cao được trình độ dân trí, giáo dục nhân sinh quan khoa học, mác xít của chủ nghĩa Mác – Lê nin, giúp người dân có thể nhận diện được các yếu tố văn hóa tiến bộ hay phản văn hóa, phản thẩm mỹ để loại bỏ hay tiếp nhận, tiếp nhận toàn bộ hay tiếp nhận một bộ phận.
Hai là, nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của lực lượng Công an phụ trách cơ sở. Đây là giải pháp có tính chất thiết yếu nhất bởi lẽ lực lượng Công an phụ trách cơ sở là những người có chức năng và nhiệm vụ tham mưu, hướng dẫn và tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia có hiệu quả vào việc thực hiện các phong trào, hoạt động văn hóa truyền thống cũng như hiện đại của địa phương, gắn liền với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Để nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng Công an phụ trách cơ sở, cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn (dài ngày hoặc ngắn ngày) tại các trường, trung tâm bồi dưỡng cán bộ văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các chuyên đề sâu về lễ hội, lễ hội truyền thống, tổ chức, quản lý lễ hội,… hoặc các chương trình đi tham quan, thực tế, học tập tại các địa phương làm tốt công tác tổ chức và quản lý văn hóa, lễ hội truyền thống. Hàng năm, sau mỗi kỳ lễ hội phải có những buổi sơ kết, tổng kết tình hình để rút kinh nghiệm những gì đã làm được, những gì chưa làm được, hạn chế, khuyết điểm trong tổ chức lễ hội để có biện pháp phát huy hơn nữa những kết quả đã làm được và sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. Đội ngũ Công an, đặc biệt là cán bộ phụ trách cơ sở phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc Công tác tổ chức, quản lý lễ hội phải đồng thời dựa trên các quy định, quy chế, hương ước của địa phương (Các quy định, quy chế, hương ước này phải hướng đến việc loại bỏ các hành vi phản văn hóa và hướng tới tạo dựng những hành vi văn hóa, văn minh, lịch sự của người tham gia thành thói quen, mỹ tục trong đời sống văn hóa) với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa lực lượng Công an với các cơ quan hữu quan. Văn hóa, lễ hội truyền thống là sản phẩm của quần chúng nhân dân. Tổ chức, quản lý lễ hội truyền thống là trách nhiệm, nghĩa vụ của nhiều cơ quan, ban, ngành. Quy mô của các lễ hội càng lớn thì số lượng và mức độ liên quan của các cơ quan, ban, ngành càng tăng. Do đó, hiệu quả của việc tổ chức, quản lý lễ hội phụ thuộc rất lớn vào sự phối kết hợp của các cơ quan, ban, ngành có liên quan. Để nâng cao hiệu quả của việc phối kết hợp của các cơ quan, ban, ngành trong tổ chức, quản lý lễ hội, lực lượng Công an cần chủ động tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương có sự phân công rõ ràng về vai trò, nhiệm vụ, chức năng, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của từng cơ quan, ban, ngành cũng như của từng cá nhân cụ thể. Việc làm này, một là để tránh chồng chéo giữa các bên; hai là để có chế độ thưởng – phạt kịp thời đối với những cá nhân, đơn vị có thành tích hoặc những cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ.
Bốn là, lực lượng Công an cần tích cực phát huy vai trò, chức năng và nâng cao trách nhiệm. Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong việc nắm bắt tình hình, điều tra cơ bản để sàng lọc, quản lí các đối tượng có tiền án tiền sự, nhất là các đối tượng có tiền án tiền sự về tội trộm cắp, cướp giật, đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gây rối trật tự công cộng, hoạt động mê tín dị đoan… Lực lượng Công an trên cơ sở nắm bắt được tình hình thực tế, cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương về tổ chức, quản lí lễ hội. Đồng thời đây cũng là lực lượng trực tiếp thực hiện các phương án, kế hoạch phân luồng giao thông, đảm bảo an ninh trật tự tại các địa điểm tổ chức lễ hội, nhất là các lễ hội có quy mô lớn (huyện, tỉnh, vùng, quốc gia). Để thực hiện được nhiệm vụ này, lực lượng Công an nhân dân cần nắm chắc được các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề tôn giáo, lễ hội, di sản đồng thời nêu cao tinh thần “chủ động - kỷ cương - trách nhiệm - hiệu quả”. Và hơn hết, lực lượng Công an phải biết dựa vào tai mắt quần chúng nhân dân - chủ nhân của các lễ hội truyền thống - để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Lễ hội truyền thống là một thành tố quan trọng của đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Do đó việc tổ chức lễ hội truyền thống theo đúng tinh thần, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước là một nhu cầu bức thiết. Trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân nên việc tổ chức lễ hội truyền thống còn nhiều bất cập. Công an nhân dân là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong việc tham mưu, đề xuất cũng như trực tiếp tổ chức, quản lý lễ hội truyền thống. Do đó, nhận diện những bất cập, hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong việc tổ chức, quản lý các lễ hội truyền thống là cơ sở để lực lượng Công an nhân dân có thể tự đánh giá được hiệu quả công tác của mình. Và hơn hết, đây là cơ sở để lực lượng Công an có thể rút kinh nghiệm và làm tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của mình trên mặt trận văn hóa, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và hội nhập quốc tế hiện nay.
                                                                                                  Ths. Lê Thị Thanh Nguyên

Nguồn: Nguyễn Cao Sơn - Nguyễn Việt Hùng (đồng chủ biên): Vận dụng một số nội dụng khoa học chính trị trong công tác công an, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016.
Xem thêm…

Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh

08:24 |
          Từ rất sớm, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được rằng muốn cứu dân tộc khỏi ách đô hộ, thống trị của bè lũ thực dân, phong kiến thì phải xây dựng được nhà nước mà ở đó người dân được hưởng những quyền “tự do, bình đẳng, bác ái”. Trong suốt thời gian hoạt động ở nước ngoài, bôn ba qua nhiều quốc gia, đi qua nhiều châu lục, Người đã tiếp thu, học hỏi khá nhiều tư tưởng về nhà nước và các cuộc cách mạng. Từ những học thuyết chính trị của giai cấp tư sản như Tinh thần pháp luật của Montesquieu; Khế ước xã hội của Rousseau … đến những tư tưởng tiến bộ về quyền con người được thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776 đã làm cho Người càng hiểu rõ hơn tầm quan trọng của Pháp luật đối với việc xây dựng Nhà nước. Hơn hết, khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin và cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy con đường mang đến độc lập, tự do cho dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản, xây dựng nên nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Mong muốn đòi lại quyền tự do, độc lập của dân tộc không thể tách rời khỏi việc xây dựng một nhà nước dân chủ với pháp luật là công cụ đảm bảo lợi ích cho nhân dân. Chính vì thế, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi đến hội nghị Vécxây năm 1919, thay mặt nhóm những người An Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đòi “thay đổi chế độ sắc luật bằng chế độ luật”. Trong Việt Nam yêu cầu ca người cũng đã viết: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”[1]. “Thần linh pháp quyền” ở đây chính là sức mạnh do con người và vì con người. Đây chính là những tư tưởng rất sớm của Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của nháp luật đối với nhà nước. Và đó cũng là những quan điểm đầu tiên thể hiện những tư tưởng của người về xây dựng pháp luật dân chủ đi cùng với Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước trong tư tưởng của Người được thể hiện ở những điểm chính sau:
Thứ nhất, pháp luật là công cụ để thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Khi nắm giữ trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp nắm quyền sẽ sử dụng những công cụ, phương tiện để áp đặt ý chí của mình lên những giai cấp và tầng lớp khác. Trong những công cụ, phương tiện đó pháp luật chính là công cụ quan trọng nhất để nhà nước có thể thực hiện quyền lực của mình đối với toàn xã hội vì pháp luật có tính bắt buộc chung. Theo Hồ Chí Minh, luật pháp là vũ khí hữu hiệu của giai cấp thống trị, dùng để trừng trị giai cấp chống lại mình, được đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội. Người chỉ rõ pháp luật có vai trò như vậy vì pháp luật là chuẩn mực của hành vi để nhân dân biết và thực hành những việc nên làm, những việc nên tránh. Người nói: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vậy Chính phủ ra Quốc lệnh rõ ràng … cho quân dân biết rõ những tội nên tránh, những việc nên làm”[2].
Quan điểm pháp luật là công cụ quan trọng nhất để thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là cơ sở để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một đất nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, khi đó chính quyền mới trở nên mạnh mẽ. Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành vi trái pháp luật, không thể có dân chủ ngoài pháp luật. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế bằng hiến pháp và pháp luật. Chính vì lẽ đó, ngay sau khi giành được độc lập, bên cạnh việc ký các sắc lệnh cho phép tiếp tục duy trì một số quy định của pháp luật cũ, Người đã đề ra yêu cầu phải ban hành sớm hiến pháp. Người nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v..  ”[3]
Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam và cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở cuơng vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng dầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Cả hai bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đều khẳng định mạnh mẽ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động. Đây là tư tưởng thể hiện rõ tính chất của một nhà nước của dân, do dân, vì dân và cũng là cơ sở để những bản Hiến pháp về sau này như Hiến pháp 1980; Hiến pháp 1992 và gần đây nhất là Hiến pháp 2013 đều khẳng định quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với Nhà nước. Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân …”. Ở đây, điều kiện thực thi quyền làm chủ của nhân dân lao động đã được “hợp pháp, hợp hiến” hay nói cách khác, trên tinh thần “thần linh pháp quyền” pháp luật bảo hộ quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước. Đây là cơ sở cao nhất cho toàn bộ hoạt động của nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam.
          Thứ hai, pháp luật bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị “tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ”[4] để bầu ra Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan bộ máy chính thức khác của nhà nước mới. Chỉ khi nào có được một nhà nước hợp hiến do nhân dân lập ra thì mới có cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng Minh, mới thiết lập được cơ chế quyền lực hợp pháp của nhà nước pháp quyền hiện đại. Người khẳng định: “Một Quốc hội được bầu ra bằng phổ thông đầu phiếu đã bảo đảm cho đất nước một Hiến pháp dân chủ”[5]
          Ngày 6/1/1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ chủ tịch, với lòng yêu nước nồng nàn và khí thế hào hùng của cách mạng tháng 8, nhân dân ta từ Bắc tới Nam đã nô nức đi bầu cử, bất chấp sự phá hoại của các thế lực “thù trong, giặc ngoài”. Thắng lợi của cuộc bầu cử đã thể hiện rõ tính hợp pháp, hợp hiến của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Yếu tố hợp pháp và hợp hiến được thể hiện ở chỗ Quốc hội – Cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước phải do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi giành được độc lập đã ra sắc lệnh ban bố quyền tự do bầu cử Nghị viện và Hội đồng nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, trong suốt thời gian người giữ chức vụ cao nhất của Nhà nước, Người đã ký lệnh ban bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.[6] Điều này cho thấy Người đã chủ trương xây dựng và hình thành nên một hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động nhà nước chặt chẽ.
          Với tầm nhìn chiến lược về con đường cách mạng Việt Nam, sau khi giành chính quyền thành công Hồ Chí Minh đã nhìn thấy rằng Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể là một chính quyền hợp pháp do chính quyền không được thành lập thông qua bầu cử, và đương nhiên cũng chưa có đủ cơ sở pháp lý vững chắc để ngồi vào bàn làm việc với quân Đồng minh. Chính vì lẽ đó, Bản tuyên ngôn độc lập ra đời là cơ sở pháp lý vững chắc đầu tiên công bố với thế giới rằng đất nước Việt Nam đã xóa bỏ chế độ thuộc địa và dân tộc Việt Nam đủ quyền và khả năng tự làm chủ đất nước của mình. Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền tự quyết và ý nguyện của dân tộc, Bản tuyên ngôn đã tạo một sơ sở vững chắc để Chính phủ lâm thời trở thành hợp pháp, có thể tổ chức bầu cử, lập nên Nhà nước và từ đó xây dựng Hiến pháp chung của đất nước.
          Bản Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa đã đặt nền móng khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của nhà nước ta. Điều này càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng của pháp luật với nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó đã trở thành công cụ của cách mạng, bằng những đạo luật cơ bản để điều chỉnh các mối quan hệ trong một nước mới giành được độc lập. Từ đó cho Quốc tế thấy rằng Việt Nam đã có chủ quyền, ta đã đánh đuổi bè lũ thực dân, phong kiến giành lấy chính quyền, chống phát xít, thay đổi vận mệnh của dân tộc và đưa nhân dân lên làm chủ.
          Thứ ba, pháp luật dân chủ là cơ sở thực hiện quyền con người. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”[7]. Tâm nguyện của người đã phản ánh khát vọng của nhân dân Việt Nam và là tôn chỉ hoạt động của nhà nước Việt Nam. Để làm đạt được điều đó toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức nỗ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật dân chủ là công cụ không thể thiếu để đảm bảo quyền con người.
Hồ Chí Minh luôn coi quyền con người là quyền cơ bản, thiêng liêng nhất. Trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Người đã trích dẫn lời bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Hồ Chí Minh coi quyền con người là quyền cơ bản, thiêng liêng và từ quyền con người Hồ Chí Minh đã suy rộng ra quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Với Hồ Chí Minh muốn thực hiện được quyền con người thì phải đảm bảo được quyền dân tộc.
Với việc thành lập một nhà nước mà về bản chất, nhà nước đó khác hoàn toàn so với các nhà nước trước đây trong lịch sử nước ta “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”[8] Hồ Chí Minh đã khẳng định bản chất của nhà nước mới đó là một nhà nước mang tính nhân dân rộng rãi, nhân dân trở thành chủ thể của quyền lực nhà nước. Người khẳng định: “Bao nhiêu quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân”[9], điều này cho thấy ở nhà nước mới này người dân đã trở thành chủ thể của quyền lực nhà nước và trong nhà nước mà người dân là chủ đó, pháp luật phải là công cụ bảo đảm cho quyền của người chủ. Tức là pháp luật đó phải là pháp luật dân chủ, pháp luật bảo đảm cho quyền của con người. Điều này càng được thể hiện rõ hơn tại Điều 1 Hiếp pháp 1946: “Nước Việt Nam là Nhà nước dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp tôn giáo”.
          Pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là pháp luật nhân văn, pháp luật không phải để trừng trị con người mà là công cụ để bảo vệ và thực hiện lợi ích cho con người. Tư tưởng pháp luật vì con người của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm trong từng hành động, biểu hiện của Người. Ở đây, pháp luật đối với Hồ Chí Minh là pháp luật nhân nghĩa, vì con người, do con người và phục vụ con người. Phục vụ con người tức là phục vụ cho nhân dân, cho đất nước và cũng chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, với những kẻ muốn phá hoại thành quả của cách mạng. Người nói: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”[10].
Pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bảo vệ cho quyền và lợi ích của nhân dân.. Người coi việc bảo vệ lợi ích cho nhân dân là việc phân định giữa pháp luật cũ và pháp luật mới. Pháp luật cũ là pháp luật của bè lũ thực dân, phong kiến, là thứ pháp luật chỉ biết phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Trái ngược với nó, pháp luật mới là pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ để giữ gìn quyền lợi cho nhân dân, Người khẳng định “Đối với nhân dân, thì công cụ của nhà nước dân chủ mới - (Chính phủ, pháp luật, công an, quân đội, vân vân) - là để giữ gìn quyền lợi của nhân dân”[11]
Pháp luật phục vụ cho nhân dân, cho đất nước nên chính vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xử lý nghiêm minh những hành vị vi phạm pháp luật của các cán bộ, công chức nhà nước “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”[12]. Trên thực tế, trong suốt thời gian làm Chủ tịch nước, Người đã chuẩn y án tử hình với hai cán bộ cao cấp của Nhà nước. Còn đối với những nạn nhân của chế độ cũ, tinh thần nhân văn trong pháp luật của Người được thể hiện rất rõ rang: “Đối với nạn nhân của chế độ cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, … thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”[13].
Trong Di chúc mà Người để lại cho chúng ta, Người đã chỉ rõ chúng ta đang thực hiện một cuộc chiến chống lại “những gì đã cũ kỹ, lạc hậu” và xây dựng “những cái tốt đẹp”. Ngày nay, vâng theo lời dạy của Người, chúng ta đang ra sức xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Bản Hiến pháp 2013 ra đời đánh dấu một bước chuyển đối với sự phát triển của đất nước trước thời kỳ hội nhập. “Xã hội luôn luôn biến đổi, tiến lên mãi không bao giờ thụt lùi. Luật pháp cũng tiến lên mãi không thụt lùi. Đó là quy luật”[14] quán triệt quan điểm của người, Đảng và Nhà nước ta cần nhận thức tốt hơn nữa, phát huy vai trò quản lý xã hội của Pháp luật, đảm bảo tốt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, góp phần đưa đất nước ta phát triển ổn định, mạnh mẽ.
Hà Tiến Linh
Nguồn: Nguyễn Cao Sơn - Nguyễn Việt Hùng (đồng chủ biên): Vận dụng một số nội dụng khoa học chính trị trong công tác công an, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016





[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, tr.473
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.189
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.7
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.7
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.527
[6] Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp, xuất bản tháng 3-1993
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.187
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.232
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.232
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.49
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.265
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.127
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, tr.617
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.390
Xem thêm…


Thế hệ Hồ Chí Minh | Ban Quản lý Lăng Bác | Bảo tàng Hồ Chí Minh | Học viện Chính trị Quốc gia |