Home » Archives for 2024-08-25
Cống hiến to lớn của Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
07:58 |
PGS.TS Văn Tất Thu
Bài viết này nêu bật những cống hiến to lớn của Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1. Từ bỏ quan trường, ủng hộ Cách mạng tháng Tám
Cụ Phan Kế Toại sinh năm 1889 trong một gia đình quan lại ở thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội). Cụ học chữ Nho từ nhỏ, lớn lên ra Hà Nội học trong một trường Tây, sau đó vào học tại trường Hậu Bổ. Từ năm 1911 đến 1914 Cụ được chính quyền bảo hộ Pháp trao học bổng du học tại trường Hành chính thuộc địa Paris. Thời gian du học ở Paris Cụ may mắn được gặp Bác Hồ, Cụ hỏi: "Theo ý anh tôi có nên học ở trường này không?"; Bác nói ngay "Tôi cũng muốn xin vào học nhưng Tây không cho. Tôi muốn có kiến thức để sau này làm được việc cho đất nước. Tôi nghĩ rằng, anh nên theo học. Sau này nếu làm được việc gì tôi sẽ tìm anh". Ý tưởng học để giúp dân, cứu nước của Bác Hồ đã ảnh hưởng lớn đến con đường học hành và sự nghiệp của cụ Phan Kế Toại sau này.
Năm 1914, Cụ về nước và làm các chức quan từ Tri huyện đến Tổng đốc của các tỉnh: Hà Tây, Tuyên Quang, Kiến An, Hà Đông, Quảng Yên, Nam Định, Lạng Sơn, Phúc Yên, Bắc Ninh, Thái Bình. Bất kỳ ở đâu, làm gì Cụ cũng lấy chữ "liêm, chính", "an dân", đạo nghĩa nhân làm gốc. Cụ được Chính phủ Trần Trọng Kim bổ nhiệm giữ chức "Khâm sai đại thần" Bắc Bộ. Năm 1944, khi đương chức Tổng đốc Thái Bình, Cụ đã trao một tín phiếu 500 đồng bạc Đông Dương cho ông Nguyễn Công Liệu là cán bộ Việt Minh lúc đó làm Khâm sai Bắc Bộ để ủng hộ cách mạng. Tháng 7/1945, Cụ xin từ chức nhưng phải đến ngày 17/8/1945 Cụ mới được chấp nhận. Chính trong thời gian này, Cụ có điều kiện góp phần quyết định vào việc hạn chế đổ máu khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra tại Hà Nội. Mười giờ đêm ngày 17/8/1945, trước khi rời Bắc Bộ phủ Cụ đã ra lệnh cho một bảo an binh là Nguyễn Sỹ Là "Tuyệt đối không được nổ súng và phải mở cửa ngay khi quân cách mạng tiến công", hành động có ý nghĩa lịch sử ấy đã thể hiện tấm lòng vì dân, vì nước của Cụ.
2. Theo Bác Hồ, hết lòng vì sự nghiệp kháng chiến kiến quốc
Với tầm nhìn xa trông rộng, tài đức dùng người và thực hiện chủ trương đại đoàn kết, phát huy sức mạnh dân tộc cho cuộc kháng chiến kiến quốc lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời các nhân sĩ, trí thức yêu nước tham gia mặt trận Liên Việt và Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho người mang thư mời cụ Phan Kế Toại lên chiến khu Việt Bắc tham gia Chính phủ.
Nhận được thư, Cụ vô cùng cảm kích, nói với con trai mình "Cụ Hồ quả đúng là con người đức độ trước sau như một" và cùng gia đình lên chiến khu Việt Bắc.
Tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 09/11/1947, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội đồng đã nhất trí cử Cụ Phan Kế Toại giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thay Cụ Tôn Đức Thắng nhận công tác khác.
Từ đầu năm 1948, cơ quan Bộ Nội vụ chuyển đến đóng tại thôn Yên Thượng, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời điểm này cơ quan Bộ chỉ có khoảng 20 cán bộ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ bao gồm Văn phòng và các Nha. Bộ Nội vụ được Chính phủ và Hồ Chủ tịch giao kiêm nhiệm phụ trách rất nhiều công việc nội chính khác nhau, từ xây dựng, bảo vệ, theo dõi tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền, bảo vệ an ninh, cho tới phụ trách tản cư, phụ trách Hoa kiều và kiều vụ, công tác thông tin tuyên truyền, vấn đề hàng binh và trại giam.v.v... Đó là các lĩnh vực công tác phức tạp, có nội dung và tính chất khác nhau, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm quản lý hành chính. Trên cương vị Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cụ Phan Kế Toại đã đề ra các giải pháp quan trọng để kiện toàn tổ chức và hoạt động của Bộ. Từ giữa năm 1948, Bộ Nội vụ bổ sung thêm một số cán bộ cho Nha Công chức Kế toán, Nha Pháp chính. Nhờ đó công tác của cơ quan Bộ đã được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Năm 1949, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cụ Phan Kế Toại, Bộ Nội vụ đã nghiên cứu cải tổ toàn bộ cơ cấu tổ chức và cơ chế phân công nhiệm vụ, vận hành công việc của cơ quan Bộ, lấy việc kiện toàn Bộ làm thí điểm cho việc kiện toàn cơ cấu và cơ chế vận hành của các bộ khác theo yêu cầu của Chính phủ. Từ tháng 5/1949 toàn bộ cơ quan Bộ Nội vụ được tổ chức lại theo một cơ chế điều hành công việc mới, hợp lý hơn. Tất cả công việc của Văn phòng và các nha sự vụ đều được gộp lại và phân công cho các phòng. Cùng với việc tổ chức lại cơ quan Bộ, cách thức làm việc của mỗi cán bộ cơ quan Bộ Nội vụ cũng được đổi mới, chuẩn hóa và chính quy hơn. Nhờ có sự cải tiến về tổ chức và cơ chế điều hành, công việc của cơ quan Bộ Nội vụ thực hiện hiệu quả hơn. Mô hình tổ chức của Bộ Nội vụ được phổ biến và áp dụng cho nhiều bộ khác trong Chính phủ.
Từ đầu năm 1947 đến giữa năm 1950 là giai đoạn cực kỳ khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bộ Nội vụ đã tổ chức thành công di tản, di chuyển chiến lược, đảm bảo giữ gìn và duy trì tốt cơ sở vật chất tối quan trọng cho toàn bộ cuộc kháng chiến. Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác sơ tán, bảo đảm an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não của Trung ương trong chiến khu Việt Bắc. Đặc biệt, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, Bộ Nội vụ, đứng đầu là cụ Phan Kế Toại đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân các cấp, góp phần quan trọng vào công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Ngay từ buổi đầu thành lập chính quyền cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ công vụ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bộ trưởng Phan Kế Toại đã chỉ đạo nghiên cứu trình Hồ Chủ tịch ký ban hành Sắc lệnh số 188/SL ngày 29/5/1948 quy định về chế độ công chức mới và đặt một thang lương chung cho các ngạch lương và các hạng công chức Việt Nam; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công chức Việt Nam. Các sắc lệnh này là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng một nền hành chính dân chủ, một chế độ công vụ phục vụ nhân dân, một đội ngũ công chức nhà nước thực sự là công bộc của nhân dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Ngày 14/3/1950, Bộ trưởng Phan Kế Toại trực tiếp ký ban hành Nghị định số 97-NV/2 và Nghị định số 98-NV/2 quy định về mở một kỳ thi tuyển cán sự hành chính tập sự và tham sự.
Cũng trong thời kỳ kháng chiến, Bộ Nội vụ còn được giao phụ trách công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự trị an. Để hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện có chiến tranh, Bộ trưởng Phan Kế Toại đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng lực lượng công an cách mạng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về bản chất chính trị trong xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân. Cụ đã trực tiếp ký ban hành Nghị định số 438/NĐ, ngày 10/10/1950 về tổ chức Ban Công an xã. Ngoài việc lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Nội vụ thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Chính phủ liên hiệp kháng chiến và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại còn tích cực tham gia trong Hội đồng Quốc phòng tối cao. Hội đồng Quốc phòng tối cao có nhiệm vụ đặc biệt là nghiên cứu kế hoạch kháng chiến toàn diện, đệ trình Chính phủ duyệt y và thực hiện kế hoạch đó. Hội đồng Quốc phòng tối cao được Chính phủ ủy quyền giải quyết những vấn đề khẩn cấp liên quan đến quốc phòng.
Thu đông năm 1950 là thời điểm quan trọng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, chúng ta chuyển sang thế tiến công, tiến tới giành thắng lợi quyết định trên chiến trường. Thời kỳ này, Bộ Nội vụ đứng đầu là Bộ trưởng Phan Kế Toại tiếp tục tham mưu cho Chính phủ kiện toàn bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương, đề xuất các giải pháp quan trọng củng cố chính quyền cách mạng, giữ vững ổn định chính trị, xây dựng hậu phương kháng chiến vững mạnh. Bộ máy chính quyền cấp xã được Bộ Nội vụ chú trọng. Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Phan Kế Toại, Bộ đã dành nhiều công sức nghiên cứu, hướng dẫn và đề ra các biện pháp củng cố chính quyền xã nói riêng, chính quyền các cấp nói chung. Bộ trưởng Phan Kế Toại đã chỉ đạo nghiên cứu ban hành các thông tư: Thông tư số 03/TC-TT ngày 27/02/1953 ấn định các nguyên tắc về tổ chức chính quyền ở các thị xã, thị trấn; Thông tư số 03/TC-TT ngày 16/02/1954 ấn định các nguyên tắc về tổ chức chính quyền ở các thị xã và thị trấn; Thông tư số 12/HX-TT ngày 16/12/1954 về chỉnh đốn chính quyền huyện.
Cùng với việc tham mưu đề xuất xây dựng củng cố chính quyền các cấp giai đoạn từ cuối năm 1950 đến tháng 12/1954, Bộ Nội vụ tiếp tục tham mưu cho Chính phủ đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo các quy định tại Quy chế công chức Việt Nam. Bộ trưởng Phan Kế Toại đã chỉ đạo nghiên cứu và trực tiếp ký ban hành Thông tư số 40/NV6-TT ngày 15/10/1950 về thăng thưởng cho công chức nhân ngày 01/05/1950; Nghị định số 357-NV/6 ngày 20/10/1950 về việc uỷ quyền quản trị những công chức thuộc Bộ Nội vụ cho Ủy ban Kháng chiến- Hành chính liên khu; Thông tư số 52/NV6-TT ngày 09/11/1950 thi hành kỷ luật đối với công chức phạm lỗi; Thông tư số 56/NV6-TT ngày 01/11/1950 về việc cho công chức thôi việc được hưởng một khoản trợ cấp; Thông tư số 5/NV2A-TT ngày 02/02/1951 quy định đặt huy hiệu công chức kháng chiến... Đó là những đóng góp quan trọng của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại trong việc xây dựng nền công vụ và chế độ công chức phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, đặt nền móng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ công vụ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Sau Hiệp định đình chiến, Bộ Nội vụ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Phan Kế Toại đã tham mưu cho Chính phủ và Hồ Chủ tịch đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhanh chóng tiếp quản Thủ đô, tiếp quản vùng giải phóng, góp phần ổn định chính trị, ổn định chính quyền và đời sống nhân dân, tạo cơ sở để nước ta bước sang giai đoạn lịch sử mới khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất, đấu tranh thống nhất nước nhà.
3. Tiếp tục đóng góp công sức xây dựng chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 20/9/1955, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết kiện toàn Chính phủ, cụ Phan Kế Toại được cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cũng trong tháng 9/1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cụ Phan Kế Toại được cử tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cụ Phan Kế Toại đã lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Nội vụ thực hiện tốt các nhiệm vụ Chính phủ giao. Đã tham mưu cho Chính phủ các giải pháp củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chỉnh đốn chính quyền nông thôn vững mạnh, xây dựng chính quyền các khu tự trị, góp phần thực hiện chính sách dân tộc của Chính phủ, xây dựng chính quyền thành thị... góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển trong giai đoạn cách mạng mới.
Bộ Nội vụ cũng đề xuất với Chính phủ ban hành Nghị định số 168/NĐ/TTg ngày 31/03/1958 thành lập Ủy ban Kiện toàn tổ chức Trung ương, Khu, Thành, Tỉnh. Đặc biệt, đã tham mưu giúp Hội đồng Chính phủ trình Quốc hội khóa I thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương; trình Quốc hội khóa II thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1960), tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức bộ máy hành chính ở trung ương cũng như ở địa phương.
Trong công tác cán bộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại đã chỉ đạo xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật, các chế độ chính sách về cán bộ, về xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Đóng góp quan trọng của cụ Phan Kế Toại là đã chỉ đạo thành lập Học viện Hành chính, tiền thân của Học viện Hành chính Quốc gia ngày nay.
Trong giai đoạn này, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại còn chỉ đạo sâu sát tập trung giải quyết những vấn đề về kiện toàn, điều chỉnh bộ máy hành chính gọn nhẹ, thông suốt và tinh giản biên chế; chỉ đạo tổ chức bầu cử HĐND các cấp, góp phần xây dựng chính quyền nhà nước, hướng dẫn tổ chức, quản lý hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ, thực hiện công tác dân chính, quản lý hộ tịch, hộ khẩu và các lĩnh vực công tác nội vụ khác.
Từ năm 1961 đến 1965, nước ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bộ Nội vụ là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có nhiệm vụ quản lý công tác tổ chức và dân chính theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Phan Kế Toại tiếp tục chỉ đạo việc nghiên cứu, tham mưu đề xuất các giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy, sửa đổi lề lối làm việc, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ quan nhà nước các cấp, quản lý công tác Việt kiều, quản lý nhà đất, địa giới hành chính, lập hội, tổ chức phi chính phủ; xây dựng, hướng dẫn thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình quân nhân, bộ đội chuyển ngành.v.v... Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ tháng 11/1947 đến tháng 4/1963, cụ Phan Kế Toại đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Bộ, ngành Nội vụ ngày một vững mạnh, xứng đáng là một bộ trụ cột trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, tham mưu giúp Chính phủ thực hiện tốt các nhiệm vụ quan trọng có tính chất nội trị của quốc gia.
Trên cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ liên tục hai nhiệm kỳ phụ trách các lĩnh vực công tác nội vụ nội chính, Cụ Phan Kế Toại đã tích cực tham gia trong các hoạt động của Chính phủ. Với kiến thức được đào tạo bài bản, hệ thống, trí tuệ uyên thâm, kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc, với đức độ và tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Cụ đã tham mưu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ xây dựng nền hành chính và chế độ công vụ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa, góp phần tích cực vào việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử Đảng và nhân dân giao phó. Công lao đóng góp to lớn của Cụ đã được Đảng và Nhà nước ta ghi nhận, Cụ đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Đại đoàn kết.
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Bộ Nội vụ (28/8/1945 - 28/8/2020), ôn lại những cống hiến to lớn của cụ Phan Kế Toại cho dân, cho nước, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Bộ Nội vụ luôn tự hào về một vị Bộ trưởng đáng kính đã làm vẻ vang truyền thống của Bộ Nội vụ./.
Bài đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước số 8/2013
Địa chỉ điện tử: https://tcnn.vn/news/detail/47403/Cong-hien-to-lon-cua-Pho-Thu-tuong-Chinh-phu-kiem-Bo-truong-Bo-Noi-vu-Phan-Ke-Toai-cho-su-nghiep-khang-chien-kien-quoc-xay-dung-chinh-the-Viet-Nam-Dan-chu-Cong-hoa.html
--------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1 (1945-1955), tập 2 (1955-1976), Nxb CTQG, H.2005.
2. Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945- 2005, tập 1 (1945-1954), tập 2 (1955- 1975).
3. Việt Nam dân quốc, công báo các số 1948, 1949, 1950, 1951.
4. Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 1952, 1953, 1954.
5. Lịch sử Bộ Nội vụ, Nxb CTQG, H. 2005.
6. Biên niên lịch sử Bộ Nội vụ, Nxb Đại học Sư phạm, H. 2005.
7. GS. NGND Nguyễn Lân Dũng, Hồ Chủ tịch - linh hồn của tư tưởng đại đoàn kết (13/01/2011).
8. Nguyễn Túc, Phan Kế Toại một nhân sĩ yêu nước.
9. Ngọc Minh, Chuyện hai Cụ Nguyễn Ái Quốc và Phan Kế Toại, báo QĐND, thứ 7, 05/9/2009, tr.9,13.
10. Văn Tất Thu, Quan điểm và nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2010.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và vấn đề đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay
01:23 |Giá trị và ảnh hưởng to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với Đảng, với dân tộc Việt Nam và quốc tế được tạo nên bởi nhiều nhân tố, trong đó phải nói tới phong cách làm việc của Người. Đó là phong cách làm việc mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà khoa học chân chính, thể hiện rõ sự thống nhất biện chứng giữa tính chính trị - giai cấp, tính khoa học, vừa thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của nhà văn hóa lớn.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh dựa trên nguyên tắc "bất biến" là mọi quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc phục tùng tổ chức, đoàn thể cách mạng. Bởi thế, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng của một vĩ nhân, bậc "Đại trí, đại nhân, đại dũng", với 24 năm liền trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta nhưng lại không xa lạ, khác thường, mà là cái mọi người cán bộ lãnh đạo có thể học tập và làm theo. Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh được thể hiện qua tư tưởng và thực tế làm việc của Người, nhưng có nhiều cái tuy không phải là "bí ẩn" nhưng chúng ta chưa biết hết được về phong cách làm việc của Người. Vì thế, những kết quả nghiên cứu về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh rất cần được tiếp tục bổ sung, phát triển.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách thức làm việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là quần chúng nhân dân. Để đạt mục tiêu lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã tác động vào quần chúng nhân dân bằng một tác phong rất sâu sát, với cách thức phù hợp để phát huy cao nhất vai trò của họ. Cách làm việc này bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân lãnh tụ và quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin và từ phẩm chất đạo đức cách mạng trọn đời vì dân của Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc"l. Người nhấn mạnh: "Cách làm việc, cách tổ chức... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng"2. Để có phong cách làm việc sát quần chúng, hợp quần chúng, Người yêu cầu cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc làm việc với quần chúng, nắm tâm tư nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của họ. Đồng thời phải tin yêu tôn trọng quần chúng, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình xây dựng của quần chúng; không chỉ giáo dục mà còn phải học hỏi quần chúng và nêu gương cho quần chúng noi theo. Người nhấn mạnh: "Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng"3, "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"4. Trong cách làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình chất lượng quần chúng, phân loại các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc cho hiệu quả, mặt khác phải nắm rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của dân chúng là "họ hay so sánh" và họ so sánh đúng vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì thế, "Người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh"5. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ phải phê phán và đấu tranh khắc phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh. Người yêu cầu các đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít.
Hồ Chí Minh không chỉ nói, viết để giáo dục cán bộ về phong cách làm việc sát quần chúng, hợp quần chúng mà Người đã thể hiện phong cách đó một cách mẫu mực để mọi người học tập và làm theo. Thực tế cho thấy, nhờ phong cách làm việc sát hợp quần chúng mà Hồ Chí Minh đã "đưa chính trị vào giữa dân gian", hòa mình với quần chúng để nghe được những điều quần chúng nói, thấu hiểu quần chúng để lãnh đạo họ.
Hồ Chí Minh có phong cách làm việc thật sự dân chủ, tôn trọng tập thể. Thực hiện dân chủ, tôn trọng tập thể là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của đảng kiểu mới. Đây là điều mà Hồ Chí Minh đã nói nhiều và đã thực hành trong quá trình làm việc với quần chúng, với cấp dưới, với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể cách mạng. Theo Người, trong công tác lãnh đạo, quản lý mà thực hành được dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến của mọi người thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để giải quyết thắng lợi mọi nhiệm vụ. Trong suốt quá trình công tác, Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về việc tôn trọng tập thể, phục tùng các quyết định của tổ chức, luôn tôn trọng ý kiến của mọi người, không phân biệt chức vụ cao thấp. Trước khi quyết định vấn đề gì, Người đều hỏi lại cẩn thận, chu đáo những người và cơ quan đã giúp mình chuẩn bị công việc. Người đã sớm cảnh báo về hiện tượng mất dân chủ, không tôn trọng tập thể trong công tác của cán bộ, nhất là những người có chức, có quyền cao. Phong cách làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể của Hồ Chí Minh hoàn toàn đối lập với phong cách làm việc theo kiểu áp đặt mệnh lệnh hành chính, độc đoán chuyên quyền, chủ quan duy ý chí, dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan, tùy tiện, tự do vô chính phủ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lối làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể phải đi liền với sự quyết đoán và tinh thần dám chịu trách nhiệm cá nhân. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ dẫn đến cái tệ bừa bãi lộn xộn, vô chính phủ”6.
Một nét đặc sắc trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là làm việc có tính khoa học. Người làm việc tận tâm, tận lực, hầu như không có thời gian nghỉ, làm việc với lòng nhiệt tình cách mạng vì nước, vì dân không với cách làm việc rất khoa học, cụ thể và thiết thực. Ở đây có một sự thống nhất hài hòa trong con người Hồ Chí Minh với cả tư cách của nhà cách mạng và nhà khoa học. Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh đối lập hoàn toàn và xa lạ với lề lối, cách thức làm việc mang nặng cảm tính chủ quan, phất phơ cốt cho hết ngày không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả công việc; làm việc một cách tự do, tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu kế hoạch; thiếu ngăn nắp, luộm thuộm, lề mề, chậm chạp, không coi trọng thời gian, lãng phí sức người sức của; làm việc thiếu cụ thể thiết thực; thiếu tầm nhìn xa trông rộng... Những biểu hiện như thế đã được Hồ Chí Minh chỉ ra và yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải kiên quyết khắc phục sửa chữa.
Để có phong cách làm việc khoa học, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều, chớ gặp sao làm vậy"7 và "việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn"8 . Khi ra các quyết định phải có thông tin đầy đủ và bảo đảm có phương án thực thi hiệu quả, không chủ quan duy ý chí, phải xây dựng thói quen tôn trọng thực tế khách quan, không bóp méo sự thật, làm việc với tầm nhìn xa trông rộng trên cơ sở dự báo khoa học về tình hình có liên quan để tránh bị động bất ngờ và tránh xa vào công việc mang tính sự vụ thiển cận. Người đã phê phán gay gắt những cán bộ mắc "bệnh cận thị". Không thấy xa trông rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ... Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”9.
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rõ ở chỗ khi làm xong một công việc, dù thành công hay thất bại đều có tổng kết rút kinh nghiệm để tiến hành những công việc khác tốt hơn. Người lãnh đạo phải biết sử dụng bộ máy, những người cộng sự, những cơ quan giúp việc một cách khoa học, hiệu quả và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển "phương pháp làm việc biện chứng" - vốn được Người xem là ưu điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác. Với tư cách là nhà khoa học chân chính, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ “con mắt ta nhìn xã hội cũng phải khoa học”10 và trên thực tế, mọi cái nhìn của Người đối với các vấn đề đều ít nhiều mang tính khoa học. Người thường dùng phương pháp so sánh các sự việc, hiện tượng theo thời gian, không gian, tính chất để làm nổi bật vấn đề. Người đã đưa ra những nhận định sâu sắc về những điều ẩn chứa đằng sau các số liệu báo cáo qua những con số cụ thể. Trong bài viết Ý kiến về việc làm và xuất bản loại sách “người tốt, việc tốt” (1968), Hồ Chí Minh có viết: "Các chú sẽ xem bản kê này, Bác đã ghi rõ mỗi ngành, mỗi giới, mỗi địa phương, già, trẻ, gái, trai, miền ngược, miền xuôi, Việt kiều mới về nước... có bao nhiêu người được khen thưởng. Những con số ghi trong này không có ý nghĩa là ngành này, giới này, tỉnh này anh hùng hơn ngành, giới, tỉnh kia. Nơi nào có ít người được khen là do khuyết điểm của cấp lãnh đạo ở đó"11.
Nét đặc sắc nổi bật trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm, nêu gương trước cấp dưới và quần chúng. Người sớm nhận thức sâu sắc rằng: sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạt động của người cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn để vận dụng lý luận một cách phù hợp, sáng tạo, qua thực tế mà bổ sung, phát triển lý luận. Phải phòng chống bệnh giáo điều, xét lại và chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường lý luận. Hồ Chí Minh đã nêu một kiểu mẫu về sự gắn kết chặt chẽ, khoa học giữa lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng thời thể hiện một tấm gương sáng về nói đi đôi với làm và nêu gương cho mọi người học tập, làm theo. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã đánh giá: "Mọi lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói là làm, thường là làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành động"12.
Hồ Chí Minh đã phê phán một số cán bộ chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được và yêu cầu cán bộ, đảng viên nói là phải làm, "nói ít, bắt đầu bằng hành động"13, "tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước"14. Muốn vậy phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm của mình, đồng thời phải hoan nghênh người khác, phê bình mình, phải chống những bệnh hữu danh, vô thực, bệnh hình thức. Về phía tổ chức Đảng, Người chỉ rõ "Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng"15.
Với cương vị, trọng trách của người đứng đầu Đảng và Nhà nước, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng to lớn đến nâng cao chất lượng lãnh đạo và uy tín của Đảng đến tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đến hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Trong tình hình hiện nay, việc đổi mới phong cách làm việc theo tư tưởng và tấm gương về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò "cái gốc của mọi công việc" của đội ngũ cán bộ, trong đó phải nói tới những cố gắng của họ để khắc phục những hạn chế, yếu kém về phong cách làm việc và rèn luyện phong cách làm việc mới theo tư tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh. Phần đông cán bộ có phong cách lãnh đạo ngày càng sâu sát cơ sở, làm việc một cách khoa học, dựa trên trình độ học vấn ngày càng cao và chuyên sâu công việc, năng động sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhiều cán bộ đã thực hành tốt nói đi đôi với làm và nêu gương trước cấp dưới, được quần chúng khen ngợi. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong phong cách làm việc. Đáng lưu ý là có một số ít cán bộ có chức, có quyền cao còn biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, hống hách. Một số cán bộ coi thường tính đảng, tính nguyên tắc trong công việc, lấy yêu cầu năng động, sáng tạo để che đậy cho những việc làm sai trái; một số cán bộ đã biến lối làm việc tập thể, cá nhân phụ trách thành "cá nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm" khi có sai phạm xảy ra. Một số cán bộ lãnh đạo còn làm việc nặng theo kinh nghiệm, cảm tính, thói quen tùy tiện, chưa coi trọng tính khoa học trong làm việc. Một số cán bộ làm việc nhiệt tình nhưng hiệu quả thấp do thiếu tính khoa học, có khi còn gây thiệt hại cho tập thể. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo, đang tồn tại ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mà biểu hiện rõ nhất là ở vấn đề nói và thực hành chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tình trạng này không những làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng mà còn làm cho kỷ cương, phép nước bị coi thường. Thực tế này vừa phản ánh phong cách làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu mới, vừa phản ánh sự yếu kém về năng lực trí tuệ, sự thoái hóa về đạo đức và những khát vọng đam mê quyền lực, lợi ích vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa của một bộ phận cán bộ. Những hạn chế, bất cập về phong cách làm việc của cán bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "chúng ta hoặc ít hoặc nhiều đều mắc phải tư tưởng, tập quán, tác phong của xã hội cũ"16. Mặt khác cán bộ, đảng viên cũng ở trong xã hội mà ra, nhiều điều kiện bảo đảm cho làm việc chưa đáp ứng được, trong làm việc không thể tránh khỏi những yếu kém, hạn chế về phong cách. Song, cần phải thấy rõ nguyên nhân chủ yếu từ phía bản thân người cán bộ, người lãnh đạo cả về trình độ năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, việc tự giáo dục, rèn luyện phong cách mới.
Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, cần tiếp tục đổi mới giáo dục, nâng cao nhận thức về tư tưởng và phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, gắn liền với tiếp tục thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Phải làm cho mọi cán bộ thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng và nội dung yêu cầu của học tập và làm theo phong cách làm việc của Hồ Chi Minh. Từ đó, cụ thể hóa và xác định những yêu cầu cơ bản về phong cách làm việc của từng loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cho phù hợp. Khắc phục kịp thời những biểu hiện nhận thức hời hợt, phiến diện, chỉ thấy phong cách làm việc là do cá tính riêng của từng người và môi trường làm việc quy định; không thấy được mối quan hệ giữa phong cách làm việc với năng lực công tác và phẩm chất chính trị đạo đức, giá trị nhân văn của người cán bộ cách mạng. Cần phải xóa bỏ tư tưởng thần thánh hóa phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, từ đó cho rằng cán bộ không thể làm theo phong cách ấy được. Đồng thời, cũng phải khắc phục nhận thức chỉ thấy phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là phong cách làm việc của một "nhà chính trị chuyên nghiệp" mà không thấy phong cách làm việc của một nhà khoa học chân chính, luôn thống nhất giữa tính đảng, tính chính trị với tính khoa học trong mỗi lời nói, việc làm và quan hệ công tác. Phong cách làm việc của người lãnh đạo không hình thành một cách tự nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Ngày nay đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đang có sự phát triển mới, trình độ dân trí ngày một cao, quan hệ ngày càng rộng rãi, xu thế công khai dân chủ hoá đang được mở rộng, các thành tựu về khoa học công nghệ nhất là về tin học, về điện tử đang được ứng dụng vào đời sống và các quan hệ làm việc. Điều đó, đặt ra yêu cầu cao về phong cách lãnh đạo quản lý của cán bộ, đòi hỏi họ phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững tri thức về con người, biết trao đổi, làm việc với từng đối tượng con người cụ thể một cách thật sự dân chủ, văn hóa. Người lãnh đạo, quản lý phải biết thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác, kịp thời trên cơ sở quán triệt đúng quan điểm giai cấp và nguyên tắc thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học. Để hình thành phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, biết xấu hổ, cắn dứt, giày vò lương tâm vì những hành vi sai trái do phong cách làm việc gây ra đối với người khác. Trong làm việc, người cán bộ phải nêu gương, thể hiện rõ thái độ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp dưới, biết tự trì trích để tiến bộ.
Việc xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý không tách rời với việc đổi mới cơ chế lãnh đạo, quản lý xã hội. Vì thế, cần phải tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế này, trong đó nổi lên là phải tiếp tục phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Giữa các cơ quan, đơn vị cần phải tăng cường phối hợp trong công tác, chủ động thiết lập và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ; khắc phục tình trạng làm việc khép kín, cục bộ, bảo thủ; phân công, phân nhiệm không rõ ràng, chồng chéo, thủ tục rườm rà, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Điều rất quan trọng là trong công tác cán bộ cần phải xem xét, đánh giá phong cách làm việc của cán bộ một cách khách quan, khoa học, góp phần làm cơ sở để cất nhắc đề bạt, luân chuyển, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Hàng năm, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần thống nhất đánh giá thực trạng phương pháp tác phong công tác của cán bộ. Xây dựng kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác cho cán bộ phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ, điều kiện, khả năng và chức trách của cán bộ. Thực hiện tốt chế độ kiểm tra báo cáo, sơ kết tổng kết kinh nghiệm, sớm phát hiện yếu kém, lệch lạc trong phương pháp, tác phong công tác của cán bộ để uốn nắn, khắc phục kịp thời./.
Đại tá PGS,TS. Nguyễn Văn Thế
Học viên Chính trị - Bộ Quốc phòng
Nguồn: Tạp chí Giáo dục chính trị quân sự (2009)
_________
Chú thích
1, 2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t. 5, tr.246, 248, 293, 297, 297.
6, 7, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.505, 239, 257.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr. 257.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.298.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.12, tr.548.
12. Phạm Văn Đồng : Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, H.1990, tr.64-65.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.430.
14, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t. 5, tr.108, 250.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.215.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của người cán bộ
01:21 |
PGS.TS. Trần Thị Minh Tuyết - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Người coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”[1], “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể”[2] và đi đến kết luận: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[3]. Vai trò của người cán bộ lớn bao nhiêu thì trách nhiệm của người cán bộ cũng nặng nề bấy nhiêu. Do đó, để làm tốt chức trách, người cán bộ phải đủ đức, đủ tài. Và đức, tài của người cán bộ lại được thể hiện sinh động qua phong cách làm việc. Với thực tiễn cách mạng, với tầm nhìn của một nhà tư tưởng lớn, Hồ Chí Minh cho rằng, bồi dưỡng, rèn luyện phong cách làm việc tốt là yêu cầu thường xuyên, cấp bách cho từng con người trong bộ máy nhà nước phục vụ nhân dân và cán bộ phải rèn luyện để có được những tác phong trọng yếu sau đây:
Một là, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ”
Hồ Chí Minh cho rằng, đây là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Do bản chất của “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”[4]. Vì thế, người cán bộ phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho quần chúng, cán bộ cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người đó càng thêm hăng hái sáng tạo và làm việc. Ngược lại, nếu người cán bộ không dân chủ thì mọi người “dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau… Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”[5]. Như vậy, phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sức sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.
Người có tác phong dân chủ là người thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người. Có công to, việc lớn gì cũng phải bàn bạc kỹ lưỡng trong tập thể rồi mới ra quyết định và động viên tất cả mọi người tích cực thực hiện.
Người có tác phong dân chủ sẽ không bao giờ “độc tôn chân lý” mà ngược lại, họ thành thực trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng.
Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[6]. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”[7] là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”[8]. Tuy nhiên, dân chủ mà Hồ Chí Minh nói đến là dân chủ có định hướng, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức.
Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc dân chủ mà bản thân Người còn là tấm gương ngời sáng về việc thực hiện tác phong đó. Lịch sử cho thấy, dù trong những hoàn cảnh gấp rút đến đâu, trước khi quyết định những vấn đề lớn liên quan đến sự nghiệp cách mạng và số phận dân tộc, Hồ Chí Minh đều tiến hành thảo luận dân chủ trong tổ chức. Khi viết các tác phẩm quan trọng như Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Lời kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước (1966), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969)…, Người đều xin ý kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Trong các cuộc họp do Hồ Chí Minh chủ tọa, Người thường yêu cầu mọi người hãy “nhìn quanh chân trời”, xem tình hình thế giới ra sao, tình hình trong nước thế nào và ai biết gì cứ nói, tất cả cùng lắng nghe, bàn bạc thấu đáo rồi mới đi đến quyết định. Cuối đời, trong lần làm việc với các cán bộ tuyên huấn về cách làm và xuất bản sách “Người tốt, việc tốt”, Người còn nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm hay làm một cách qua loa”[9]. Tinh thần dân chủ, phong cách dân chủ của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ lòng yêu thương và tôn trọng con người nên Người thực hiện nó như một điều tất yếu.
Hai là, phong cách quần chúng
Thấu hiểu vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và coi quần chúng không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có tác phong quần chúng.
Trước hết, người cán bộ phải gần gũi quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê bình những cán bộ cậy thế ở trong ban này, ban nọ rồi coi khinh dân, lên mặt với dân. Người cũng phê phán lối lãnh đạo quan liêu, chỉ đạo phong trào trên giấy tờ. Người yêu cầu người cán bộ phải thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Ngược lại, nếu “cách xa dân chúng, không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[10]. Tuy nhiên, lắng nghe quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” vì “trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu”[11]. Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Tiếp đến, người cán bộ phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của quần chúng. Người phê phán mạnh mẽ lối lãnh đạo quan liêu, áp đặt. Người nói: “Nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy”[12]. Người cán bộ không được phép cứng nhắc mà phải căn cứ vào thực tế để đề nghị cấp trên điều chỉnh quy tắc, kế hoạch chưa hợp lý. Hồ Chí Minh còn chỉ ra cách thức làm nghị quyết và làm công tác chỉnh đốn cán bộ như sau: “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[13]. Người cán bộ còn phải biết dựa vào quần chúng, biết phát huy sức mạnh của quần chúng để triển khai công việc và hoàn thành công việc. Tóm lại, “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”[14].
Thứ nữa, trong công tác và trong sinh hoạt, người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ , rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín, giữ được thể diện. Nói thế hết sức sai. Muốn có oai tín thể diện, thì phải làm việc cho giỏi. Nếu ăn mặc bảnh, mà được oai tín thể diện, thì mấy chàng Sở Khanh chẳng nhiều oai tín lắm ư? Mà Hồ Chủ Tịch, quanh năm bốn mùa, chỉ mặc một bộ áo vải ka ki cũ, mỗi ngày có rau ăn rau, có mắm ăn mắm. Như thế, Người chẳng mất oai tín thể diện đi sao”[15]? Suốt đời, Vị Chủ tịch kính yêu của nhân dân Việt Nam đã sống một cuộc đời thanh bạch đến khắc khổ bởi cho rằng, khi đời sống của nhân dân còn khó khăn mà người cán bộ lại hoang phí thì “hoang phí là tội ác”[16].
Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
Ba là, phong cách khoa học
Giáo dục cho cán bộ phong cách làm việc khoa học để nâng cao hiệu quả công việc là điều Hồ Chí Minh rất chú trọng.
Theo Người, cán bộ làm việc gì cũng phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì phải làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc ấy”[17]. Hết sức tránh chuyện vạch ra “chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
Người làm việc khoa học phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại”[18]. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc. Người giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”[19].
Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, với tầm tư duy chiến lược. Tức là người cán bộ phải trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “bệnh cận thị - Không trông xa, thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”[20]. Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài. Tầm nhìn – đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách làm việc khoa học.
Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ phải có “con mắt xanh” để nhìn đúng người, nhìn ra việc, sắp xếp công việc cho hợp lý. Lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả. Kiểm tra để biết đường lối, nghị quyết của Đảng được tổ chức thi hành như thế nào và cần điều chỉnh như thế nào vì “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không kịp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp thế”[21]. Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ vì “có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”[22]. Người làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.
Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”[23]. Đi “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” là cách tư duy và hành động của người có đầu óc khoa học.
Bốn là, phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm
Trong văn hóa phương Đông, nêu gương được coi là phương pháp giáo dục trọng yếu nhất, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[24]. Xưa kia Khổng Tử nói rằng, nhà cầm quyền “tự mình giữ theo chính đạo, thì chẳng cần đợi ra lệnh, dân cũng ăn ở theo chính pháp. Còn nếu như tự mình chẳng giữ theo chính đạo thì dẫu ra lệnh buộc dân theo, dân cũng không theo”(Luận ngữ). Lãnh tụ của giai cấp vô sản - V.I.Lênin thì khẳng định: Những người cán bộ, đảng viên không có một đặc quyền nào, trừ một quyền là luôn luôn ở phía trước. Thấm nhuần tất cả những quan điểm mang tính chân lý đó, Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[25]. Người còn nói rõ: “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”[26], “mình trước hết phải siêng năng, trong sạch mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”[27].
Theo Hồ Chí Minh, sinh ra là con người, ai cũng có 3 mối quan hệ: Với mình, với người và với việc. Người cán bộ phải thực hành nêu gương trên cả 3 mặt đó. Với mình thì không tự cao tự đại; luôn thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Với người thì luôn chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, khoan dung. Với việc thì luôn thực hành nguyên tắc “dĩ công, vi thượng”. Và đạo đức công vụ của người cán bộ không nằm ngoài đạo đức công dân. Họ trước hết phải là một công dân tốt, phải vận động mọi thành viên trong gia đình sống và làm việc theo pháp luật. Nếu người cán bộ không vận động được những người trong gia đình mình sống gương mẫu thì cũng không đủ tư cách vận động quần chúng. Khi người cán bộ thực hiện công tác dân vận thì phải thực hiện phương châm “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” chứ không phải chỉ đứng trên cao diễn thuyết. Tức là người cán bộ phải biết gương mẫu mọi nơi, mọi lúc, trong công việc cũng như trong cuộc sống đời thường. Người giải thích cho cán bộ về nghĩa vụ “đi đầu” của người cán bộ: “Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sỹ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sỹ xung phong. Đã vậy, thì mỗi người đảng viên phải cố gắng cho xứng đáng là một người trong những người đại biểu của dân tộc”[28].
Một trong những nội dung quan trọng mà người cán bộ cần nêu gương là nói đi đôi với làm. Với Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo đức công vụ tối thiểu. Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ, do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”[29]. Nhân dân không bao giờ tin cậy những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều mình đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.
Phong cách làm việc của người cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều nội dung nhưng tất cả đều gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và xuất phát từ yêu cầu về tài và đức của người cán bộ. Những người làm việc dân chủ, gần gũi quần chúng là bởi họ trọng dân, yêu dân, tin dân. Họ làm việc khoa học vì họ có đầu óc phân tích, có tư duy rành mạch và sự nhạy cảm trong công việc. Họ nói đi đôi với làm, có ý thức nêu gương bởi họ có lòng tự trọng, có tinh thần trách nhiệm cao. Người cán bộ có đức, có tài sẽ có tác phong làm việc tốt và ngược lại. Nhưng những ai có ý thức tu dưỡng, rèn luyện cho mình phong cách làm việc tốt thì dần dần cái tài sẽ lớn lên, cái đức sẽ dầy thêm. Và đây cũng là chính là những chỉ dẫn để người cán bộ có đức có tài tiếp tục phấn đấu, vươn lên, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, của dân tộc./.
Nguồn: Tạp chí điện tử Tổ chức nhà nước
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, t.5, tr.68.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.356.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.313.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.283.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.176,
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 637.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.661.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 326.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.336.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 288.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.337 – 338.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.288.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.241.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 241.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 332.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.123.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.463.
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.297.
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.28.
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.636.
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr.283.
[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.284.
[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.16.
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.130.
[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.98.
[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.293.
[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.327.