Công an là của nhân dân

23:43 |


Thực sự lúc sinh thời, Bác Hồ không nói và viết nhiều về lực lượng Công an nhân dân. Thế nhưng, trong không nhiều những câu chữ Bác dành riêng cho chúng ta lại ẩn chứa rất nhiều những suy tư và tâm huyết về một lực lượng phải gánh vác những “công việc âm thầm nhưng rất quan trọng” (chữ Bác đã dùng trong bài nói chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 1/1956).


Đặc biệt 6 điều Bác Hồ dạy lực lượng Công an nhân dân (CAND) trong suốt mấy chục năm qua đã luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân, giúp lực lượng CAND hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi thời kỳ cách mạng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Các thế hệ cán bộ chiến sĩ CAND đã luôn luôn tâm niệm rằng, học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy đồng nghĩa với sự thực hiện nhiệm vụ và lý tưởng của mình. Cần phải thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” của cách mạng mùa thu năm 1945 đã luôn nhấn mạnh tới tính công bộc của bộ máy nhà nước đối với nhân dân. Là người từng trải, anh minh và mẫn tiệp, đã không chỉ một lần phải “biết mùi hun khói”, Bác Hồ hiểu rất rõ những cảm giác mà các bộ máy chính quyền trong một xã hội có tình trạng người bóc lột người gây nên trong tâm trí dân chúng nên ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945, Bác đã rất dày công để tuyên truyền, giáo dục, cổ xuý một hình mẫu chính quyền mới, chính quyền nhân dân. Tháng 10/1945, với bút danh Chiến Thắng, Bác viết: “Non hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, nói tới hai chữ Chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp nguy hiểm, xảo quyệt. Trái lại, ai ai đối với Chính phủ nhân dân hiện nay cũng đều có một cảm tình thân mật xen lẫn với một niềm tôn kính sâu xa: Chính phủ đối với ta như người “anh cả” trong gia đình, một đồng chí phụ trách một địa phương, người đứng mũi chịu sào ta có thể vững lòng trông cậy và gửi số mệnh vào. Người xưa nói: quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy... Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân phải tránh”.

Cán bộ Lớp Trung cấp Công an rất phấn khởi, vinh dự được Bác Hồ đến thăm và chụp ảnh kỷ niệm (1950). Ảnh: Tư liệu.


Cũng với cách hình dung như thế, Bác Hồ muốn lực lượng CAND phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của những công bộc của dân trong một lĩnh vực hoạt động hết sức đặc thù liên quan tới sự an nguy của cả xã hội, cả chế độ. Đọc xong số nội san Bạn dân của Công an khu XII năm 1948, Bác đã nhắc nhở đồng chí Hoàng Mai (lúc đó là Giám đốc Công an khu VII) rằng: “Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc”. Theo Bác, công an ta luôn luôn phải “lấy lòng” dân (hiểu theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ này) để được dân giúp đỡ và có được dân giúp đỡ thì công an ta mới có thể làm việc có hiệu quả. Cách lập luận của Bác rất giản dị nhưng đầy thuyết phục: “Bác lấy một ví dụ: Công an ta có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế thì sẽ thất bại...” (trích bài nói tại Trường Công an trung cấp khóa 2, năm 1951). Nhìn lại thực tế hôm nay, càng thấy những lời Bác dạy thực là chí lý! Nếu không được lòng dân và không được nhân dân thực sự giúp đỡ, tin tưởng, coi như con em của mình thì bao nhiêu cố gắng nắm bắt địa bàn cũng dễ trở thành công cốc. Việc nước rất nhiều (lại vẫn câu chữ của Bác), việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội cũng rất nhiều, chỉ mình lực lượng Công an đảm trách thôi thì không đủ. Phải làm sao để các tầng lớp nhân dân cũng sát cánh cùng lực lượng CAND, chung lưng đấu cật trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự an toàn xã hội. Công an phải luôn gần gụi với người dân, phải học cách ứng xử với nhân dân sao cho lễ phép, chân thành. Còn nhớ, trong bài nói chuyện với hội nghị tổng kết công tác cảnh vệ tháng 2/1962, Bác đã nhắc nhở: “Bác nói một điểm nữa là thái độ đối với nhân dân. Cũng vì mục đích bảo vệ Bác nên các chú không muốn để đồng bào đến gần, cho nên đã xô đẩy đồng bào. Thái độ thế là không tốt. Đồng bào và các cháu nhi đồng muốn đến gần Bác. Nhưng các chú thì lại không muốn. Nó có mâu thuẫn, nhưng phải làm thế nào? Mình là dân chủ. Bác cũng như các chú, đều nói là phục vụ nhân dân. Cho nên phải khéo tổ chức, nếu không khéo tổ chức thì xô đẩy cũng không được; cho nên, phải làm thế nào để vừa bảo vệ được Bác, vừa không xô đẩy đồng bào”. Người Cha già của dân tộc vừa thông tuệ cổ kim vừa nắm rất rõ và tinh tế cả những chi tiết dù nhỏ nhặt nhất của đời thường.


Có đức mới vực được nghề

Làm nghề nào muốn tốt thì cũng phải tinh thông mọi ngón chuyên môn. Làm người công an nhân dân nếu muốn hoàn thành thực tốt chức phận của mình thì không chỉ giỏi nghiệp vụ mà còn phải là thấm nhuần những tiêu chí đạo đức cách mạng. Đây cũng là một trong những điều mà Bác Hồ từng nhấn mạnh khi viết hoặc nói với lực lượng CAND. Bác phân biệt rất rạch ròi sự khác biệt giữa bộ máy công an của chính quyền cách mạng với cái gọi là ngành công an trong những xã hội còn áp bức, bất công. Bác nói (cũng tại Trường Công an trung cấp khoá 2): “Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân. Chắc các cô chú cũng nhớ chúng nó là bọn đầu trâu mặt ngựa. CAND phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành, chính sách phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. CAND phải thực sự phục vụ nhân dân...”. Mà muốn thực sự phục vụ nhân dân thì không thể không là những người có đạo đức cách mạng thực sự. Chính vì thế nên Bác Hồ đã đặt lên trên hết mọi sự yếu tố đạo đức trong hoạt động nghiệp vụ của người công an cách mạng. Cũng trong bức thư gửi đồng chí Hoàng Mai đã nhắc ở trên, Bác nhấn mạnh: “Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức”. Theo Bác, tư cách người công an cách mạng là phải đáp ứng được đủ những yêu cầu sau:


“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm chính.

 Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.

 Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.

 Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép.

 Đối với công việc, phải tận tuỵ.

 Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.


Và Bác dạy, muốn giữ gìn, bồi đắp đạo đức cho mình, những người chiến sĩ CAND hơn ai hết cần phải biết “phê bình nhau”. Ngay trong những ngày đầu của chính quyền dân chủ cộng hòa, Bác cũng đã hiểu quá rõ là những người công bộc mang sắc phục công an nếu không tự xác định được đúng đắn vai trò và nhiệm vụ của mình thì rất dễ mắc phải sai lầm. Tôn vinh sự tử tế nhưng Bác cũng rất nghiêm khắc với những thói hư tật xấu và Bác đã thẳng thắn phê bình: “Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân, nhưng hiện nay các cô các chú đã làm tròn nhiệm vụ ấy chưa? Chưa. Tuy đã có nhiều người tận tâm, cố gắng nhưng lẻ tẻ vài nơi nhân dân còn chê trách đấy!”. Bác nói: “Trong nội bộ, công an cũng phải phê bình nhau. Đối với người không sửa được thì phải tẩy trừ ra khỏi ngành kẻo để lại thì con sâu làm rầu nồi canh. Phải làm thế nào cho được lòng dân, phải thực sự giúp đỡ dân trong công việc chứ không phải là lối ngoại giao qua loa. Có như thế thì người dân mới tích cực trở lại giúp đỡ công an”.


Kẻ thù dai dẳng - chủ nghĩa cá nhân

Trong bài nói tại Trường công an nhân dân ngày 28/1/1958, Bác Hồ đã gióng lên hồi chuông báo động rằng, người chiến sĩ công an phải thực sự chú trọng tới việc chống chủ nghĩa cá nhân, tức là chống thói so bì đãi ngộ, muốn nghỉ ngơi hưởng thụ, an nhàn... Bác cũng nhắc nhở trong bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an (ngày 16/5/1959): “Chủ nghĩa cá nhân không phải chống lại một lần là hết được. Trong lớp này, các cô các chú kiểm thảo thành khẩn là điều tốt, tiến bộ. Nhưng không phải kiểm thảo xong là gột rửa hết chủ nghĩa cá nhân. Ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày. Vì vậy, kiểm thảo ở đây không phải là xong, là đủ mà còn phải tiếp tục luôn luôn phê bình, tự phê bình, kiểm thảo trong mọi việc”.


Nhìn vào hôm nay, càng thấy những lời Bác dạy năm xưa vẫn có tính thời sự nóng bỏng. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thực sự vẫn đang còn tiếp diễn. Người chiến sĩ công an không theo thuyết khổ hạnh nhưng ham muốn có một nếp sống không thích ứng với thực trạng đất nước luôn dễ là “ma đưa lối quỷ dẫn đường” đối với những công bộc có vai trò rất quan trọng trong bộ máy chính quyền hành pháp như lực lượng CAND. Điều này hiển nhiên hơn ai hết tất cả những chiến sĩ Công an như chúng ta đều nhớ.

Chính Nhân (HVCSND)
Nguồn: http://www.candvn.com/2014/09/cong-la-cua-nhan-dan.html
Xem thêm…

Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp năm 1946 - giá trị lịch sử và hiện thực

20:18 |
Cách đây 70 năm, vào chiều 06-3-1946, tại Hà Nội, Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp được ký kết trước sự chứng kiến của đại diện Trung Hoa dân quốc, Anh, Mỹ. Đây là một trong những sách lược đúng đắn, sáng tạo, kịp thời của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc trong tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Hiệp định Sơ bộ có ý nghĩa giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày 06-3-1946 với đại diện Pháp Sainteny. Ông Hoàng Minh Giám đọc bản hiệp định. (ảnh tư liệu)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng Nhà nước ấy chưa được thế giới công nhận. Trong khi đó, Hội nghị Pốt-xđam1 đã quyết định đưa quân đội Đồng minh vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật. Theo đó, ở phía Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra) giao cho quân đội Tưởng Giới Thạch và phía Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào) quân đội Anh đảm nhiệm. Tuy nhiên, cùng với đề ra biện pháp giải quyết các vấn đề liên quan tới các nước bại trận, Hội nghị còn tiến hành phân chia khu vực ảnh hưởng giữa các nước lớn. Tại đây, mối quan hệ Đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít đã nhanh chóng bị phân hóa, thay vào đó là sự đối địch giữa Liên Xô và các nước đế quốc do Mỹ đứng đầu. Trong đó, các nước đế quốc đã thoả hiệp, nhân như­ợng để thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
Thực hiện âm mưu đó, ngày 23-9-1945, núp bóng quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, rồi đánh chiếm rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ và phần lớn Cam-pu-chia; đồng thời khống chế vùng nông thôn rộng lớn ở Lào,... từng bước thực hiện dã tâm xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Nền độc lập mà dân tộc ta mới giành lại được phải đương đầu với nhiều kẻ thù, bị uy hiếp từ nhiều phía. Đầu năm 1946, tuy đã chiếm được tỉnh Lai Châu và một phần của tỉnh Sơn La, nhưng còn 20 vạn quân Tưởng chiếm giữ nên Pháp vẫn không thể thôn tính được miền Bắc. Để tránh xung đột, Pháp đã tìm cách thỏa hiệp với Chính phủ Trung Hoa dân quốc bằng Hiệp ước Trùng Khánh (ngày 28-02-1946).
Theo đó, chính quyền Tưởng Giới Thạch đồng ý cho quân Pháp thế chân giải giáp quân Nhật ở Bắc Đông Dương. Đổi lại, Pháp có những nhân nhượng về kinh tế và chính trị cho chính phủ Trùng Khánh. Rõ ràng, việc Pháp và Trung Hoa dân quốc ký kết Hiệp ước Trùng Khánh không chỉ phản ánh bộ mặt thật gian giảo của thực dân, đế quốc, mà còn chà đạp, xúc phạm đối với quyền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam, đi ngược lại tinh thần của Công ước Liên hiệp quốc đã được hơn 50 quốc gia ký kết trước đó. Với Hiệp ước đó, Pháp đã đạt được mục đích thay thế quân Tưởng một cách hòa bình mà không hề đếm xỉa đến lợi ích của nhân dân Đông Dương. Tuy nhiên, để đặt chân lên miền Bắc nước ta, Pháp vấp phải sự tồn tại của Chính phủ Hồ Chí Minh được quần chúng ủng hộ. Thực tế đó buộc Pháp phải tìm cách thương lượng với chính quyền cách mạng.
Hiệp ước Pháp - Hoa cũng đặt ra cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sự lựa chọn “khắc nghiệt”, hoặc là cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc là hòa hoãn, nhân nhượng với chúng để tránh tình trạng cùng một lúc phải đối phó với  nhiều kẻ thù và tranh thủ được thời gian hòa hoãn, tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng cách mạng. Ở thời điểm ấy, nếu cầm vũ khí chiến đấu chống lại quân Pháp, chúng ta có nguy cơ phải đối đầu với 20 vạn quân Tưởng còn hiện diện ở miền Bắc cùng bè lũ phản động do chúng dung dưỡng, trong khi thế và lực của ta còn non yếu. Với nhãn quan chính trị sắc sảo và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình, khi cả hai đối phương đều cần đến phía Việt Nam để tìm một giải pháp có thể chấp nhận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời quyết định ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06-3 với những điều kiện có lợi nhất cho Việt Nam, phù hợp với cục diện tình hình và tương quan lực lượng cách mạng. Theo đó, nước Pháp phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm trong liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp và cam đoan thừa nhận kết quả trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ (Bắc, Trung, Nam). Đổi lại, Việt Nam đồng ý để Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc (thay thế quân Tưởng) và sẽ rút hết sau 05 năm. Lúc đó, hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức; trong khi đàm phán, quân đội hai bên giữ nguyên vị trí. Đây là quyết định về sách lược đúng đắn, sáng tạo theo phương châm “hòa để tiến” của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm phân hóa, loại bỏ bớt kẻ thù để tập trung vào đối tượng chủ yếu trong tình thế tương quan lực lượng không có lợi cho ta. Do vậy, Hiệp ước Sơ bộ Việt -  Pháp đã để lại những giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc.
Về mặt lịch sử, Hiệp định Sơ bộ ngày 06-3 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp. Theo lôgíc đó, Hiệp định Sơ bộ đã chứng tỏ rằng: Việt Nam là một quốc gia sánh ngang hàng với Pháp, không còn là thuộc địa của Pháp và càng không cần đến sự bảo hộ của Pháp. Nhận xét về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Sự ký kết đó có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nước Việt Nam là một nước tự chủ”2. Đồng thời, nó còn “mở đường cho sự công nhận của quốc tế... dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngày càng vững vàng và đó là một thắng lợi chính trị lớn lao”3. Dù chỉ là sự kiện trong khuôn khổ Việt - Pháp, nhưng đã khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm và hoan nghênh. Trả lời phỏng vấn hãng tin AFP tại Trùng Khánh, Chu Ân Lai, đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc nói rằng: “Đó là một việc làm khuôn mẫu cho các đế quốc ở Thái Bình Dương và châu Á”. Pandi Neru, lãnh tụ Đảng Quốc Đại (sau này là Thủ tướng Ấn Độ) bày tỏ quan điểm đồng tình; còn Van Mook, Toàn quyền Hà Lan tại In-đô-nê-xi-a đã cử người đến Hà Nội để tìm hiểu kinh nghiệm4. Như vậy, Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sở pháp lý để nâng tầm vị thế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.
Cùng với đó, việc chủ động ký Hiệp ước Sơ bộ đã tỏ rõ tầm nhìn, tư duy chiến lược sắc bén của Đảng ta về vận dụng điều kiện thực tiễn khách quan để chuyển hóa tình thế cách mạng. Trước mắt, với bản Hiệp định này, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chỗ bị gạt ra ngoài thỏa thuận Pháp - Hoa, trở thành một bên chủ thể quyết định đến việc thực hiện các điều khoản thay quân trong Hiệp ước Trùng Khánh, để kết thúc về mặt pháp lý vai trò của quân Tưởng tại Việt Nam, theo quy định của Hội nghị Pốt-xđam. Đây là quyết định “nhất cử lưỡng tiện”, vừa tránh phải đối đầu với Pháp trong điều kiện bất lợi cả về thế và lực, vừa mượn tay Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi. Đó là đòn tiến công ngoại giao hết sức chủ động, sáng tạo, nhằm phân hóa kẻ thù, thúc đẩy chúng tự loại trừ lẫn nhau, tạo thuận lợi để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Nhân nhượng để cho 15.000 quân Pháp kéo ra miền Bắc là sự chia lửa với đồng bào miền Nam, tận dụng thời gian hòa hoãn để tập trung sức lực chuẩn bị thế trận cho cả nước bước vào kháng chiến với tinh thần: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào và ở đâu, mà hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”5. Tận dụng thời cơ đó, chúng ta đã có thời gian để xây dựng bộ máy chính quyền từ xã đến huyện, tỉnh trong toàn quốc, xây dựng nền kinh tế - tài chính độc lập, đặc biệt là việc xây dựng Quân đội quốc gia, nâng tổng quân số lên khoảng 80.000 người và gần 01 triệu du kích, tự vệ vào giữa năm 1946 để vững bước tiến vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược Pháp.
Như vậy, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để đổi lấy thời gian, biến thời gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp khi chúng không có lực lượng Đồng minh tại chỗ hỗ trợ. Đánh giá về sự kiện trên, đồng chí Lê Duẩn viết: “Tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lênin-nít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch về sự nhân nhượng có nguyên tắc”6.
Cùng với những giá trị về lịch sử, Hiệp định sơ bộ cũng để lại những giá trị hiện thực sâu sắc. Đó chính là quan điểm giữ vững nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược trong đấu tranh, đã và đang được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt hiện nay, với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc chiến lược mang tính bao trùm là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong một thế giới đang biến đổi sâu sắc, đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp, Đảng đã chủ động điều chỉnh sách lược cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, tận dụng thời cơ, thúc đẩy hợp tác kết hợp với đấu tranh một cách hài hòa, linh hoạt để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, tránh đối đầu và rơi vào thế cô lập. Giữ vững độc lập, tự chủ, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại. Chú trọng hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn và các nước trong khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương trong khu vực và toàn cầu,... góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Mỗi bước mở rộng, đưa quan hệ hợp tác với các nước vào chiều sâu đều nhằm củng cố, tăng cường thực lực trong nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đó cũng chính là sự vận dụng sâu sắc bài học kinh nghiệm từ ký kết Hiệp định Sơ bộ của 70 năm về trước.
Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN BẠO, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
Nguồn: Tapchiqptd.vn
___________________________
1 - Hội nghị của các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ 2 (họp từ ngày 16-7 đến 02-8-1945 tại Pốt-xđam, Đức).
2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 228.
3 - Philippe Devillers - Tài liệu lưu trữ chiến tranh 1944-1947, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993, tr. 218.
4 - Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 72.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tậpTập 8, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 46.
6 - Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, H. 1979, tr. 31.
Xem thêm…

Chủ nghĩa Mác dứt khoát đúng!

19:40 |
TẠI SAO MÁC ĐÚNG?
HAY LÀ SỰ KHẲNG ĐỊNH: CHỦ NGHĨA MÁC DỨT KHOÁT ĐÚNG!
(Lời giới thiệu cho lần xuất bản thứ nhất bản tiếng Việt tác phẩm “Tại sao Mác đúng?” của Terry Eagleton)
GS. TS. TẠ NGỌC TẤN
          Cuốn sách Tại sao Mác đúng? của tác giả Terry Eagleton – giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Lancaste Vương quốc Anh viết và được Alex Callinices, Philip Carperter, Ellen Meiksins Wood – là những giáo sư chính trị của Anh, Mỹ đọc và góp ý. Cuốn sách đã được trường Đại học Tổng hợp Yale, một trường đại học danh tiếng của Mỹ lựa chọn xuất bản đầu năm 2011. Đây là một cuốn sách gây nhiều chú ý của công luận. Ngay sau khi xuất bản, cuốn sách đã nhận được nhiều bình luận, phê bình, nhận xét, đánh giá của giới học giả và báo chí trên thế giới, nhưng tựu trung có hai quan điểm khác nhau. Những người phê bình cuốn sách cho rằng nội dung cuốn sách thiếu sự chính xác mang tính logic, sử dụng nhiều mỹ từ hay đầy tham vọng về tri thức” (báo The Obsever, ngày 29/5/2011). Còn bài bình luận, đăng trên báo Guardian, ngày 21/5/2011 cho rằng cuốn sách đã né tránh sự phê phán kinh tế chính trị. Trong khi đó, rất nhiều người ủng hộ T.Eagleton lại hết lời ca ngợi cuốn sách. Tờ Financial Times ra ngày 27/5/2011 cho rằng, tác giả cuốn sách xứng đáng là ứng viên giải Nobel Kinh tế vì đã “làm sống lại Mác” và khẳng định rằng: “cách tiếp cận của Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản”. Bài bình luận của tạp chí Socialist Review số ra tháng 6/2011 viết: Cuốn sách này rõ ràng nhằm tới những người lần đầu tiên tiếp cận sâu những tư tưởng của Mác... Nhưng cuốn sách nhỏ này giúp trang bị cho những người xã hội chủ nghĩa thế hệ mới những tư tưởng cần thiết để giành thắng lợi trong trận chiến sắp tới”. Một bài bình luận đăng trên www.socialistalternative.orgviết: “Cuốn sách ra đời rất đúng lúc khi người ta đang phê phán chủ nghĩa Mác là “lạc hậu” vì “không phù hợp”, không thể gắn nó với những vấn đề kinh tế và chính trị đương đại. T.Eagleton đã đưa ra sự điều chỉnh rất cần thiết cho quan điểm thiếu hiểu biết này” v.v.. 
Cho dù là phê phán hay ủng hộ nhưng với số lượng lớn những bài bình luận, nhận xét, đánh giá xuất hiện gần như cùng một lúc trên các phương tiện truyền thông đại chúng về tác phẩm “Tại sao Mác đúng?” của T.Eagleton cũng cho thấy một sự thực rằng: Cuốn sách có sức hấp dẫn lớn đến mức nào!
Điều quan trọng là qua nội dung cuốn sách, T.Eagleton thể hiện rõ quan điểm của mình là: Ông không chấp nhận định kiến cho rằng chủ nghĩa Mác đã chết và không cần phải nhắc đến nữa. Ông khẳng định C.Mác là người đầu tiên nhận biết được đối tượng lịch sử được biết đến là chủ nghĩa tư bản, chứng minh nó xuất hiện như thế nào, hoạt động theo quy luật nào và có thể đi đến chỗ kết thúc ra sao. CN Mác từ khi ra đời và trong quá trình phát triển của nó luôn là sự phê phán quyết liệt nhất về mặt lý luận, phong phú nhất về mặt thực tiễn, không khoan nhượng nhất về mặt chính trị đối với hệ thống TBCN. Chính vì thế mà Mác cũng nhận được nhiều sự ca ngợi và đồng thời là nhiều sự phê phán, chống đối. Tác giả cuốn sách đã lựa chọn 10 vấn đề – sự phê phán phổ biến nhất đối với C. Mác để phân tích, lý giải, đưa ra những minh chứng vững vàng nhằm phản bác và đi đến khẳng định sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Những vấn đề được tác giả lựa chọn để phản bác đã cơ bản phản ánh đầy đủ các bình diện xã hội lịch sử của chủ nghĩa Mác, đã đặt chủ nghĩa Mác dưới nhiều góc nhìn, lát cắt khác nhau để luận giải và trả lời câu hỏi: Tại sao Mác đúng? Có thể khái quát nội dung phản bác 10 vấn đề đó như sau: 
Vấn đề thứ nhất: “Chủ nghĩa Mác đã kết thúc, nó được coi là phù hợp trong thế kỷ XIX, không ăn nhập gì với xã hội phương Tây hậu hiện đại ngày càng không còn giai cấp và dễ dàng biến đổi về mặt xã hội như ngày nay…”.
Ở vấn đề này, T.Eagleton khái quát rằng, hầu hết những phê phán đối với chủ nghĩa Mác đều tuyên bố là hệ thống tư bản chủ nghĩa thay đổi nhiều đến mức không còn nhận biết được so với hệ thống tư bản chủ nghĩa thời C. Mác nghiên cứu, nên tư tưởng của C. Mác không còn phù hợp. Những phê phán C. Mác che đậy căn nguyên sâu xa rằng, chính chủ nghĩa Mác là sự phê phán chủ nghĩa tư bản một cách sâu sắc, toàn diện và khắt khe nhất; đó là sự phê phán duy nhất làm thay đổi bộ phận lớn của thế giới, thậm chí thay đổi cả thế giới. Những người phê phán C. Mác cố tình phớt lờ một điều rõ ràng là C. Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông phản bác. Chính nhờ C. Mác mà loài người có được những khái niệm về các hình thái lịch sử khác nhau đã song hành hoặc kế tục nhau tồn tại của tư bản: tư bản thương mại, tư bản nông nghiệp, tư bản công nghiệp, tư bản độc quyền, tư bản tài chính, đế quốc… C. Mác còn nhìn thấy trước được cái mà giờ đây chúng ta gọi là “toàn cầu hóa”. Tác giả đã dẫn số liệu phong phú để chứng minh cho sự chuyển đổi từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp, trong đó bao gồm chủ nghĩa tiêu dùng, truyền thông, công nghệ thông tin và các ngành dịch vụ. Ông còn chứng minh rõ, sức khỏe của chủ nghĩa tư bản đang suy nhược do cạnh tranh quốc tế gia tăng khiến tỷ lệ lợi nhuận giảm sút, vắt kiệt nguồn đầu tư, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, khủng hoảng kinh tế kéo dài, nền dân chủ xã hội trở thành một sự lựa chọn chính trị cực đoan và đắt đỏ.
T.Eagleton cho rằng, nguyên nhân gây mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác chính là sự cảm nhận dần dần về căn bệnh bất lực chính trị từ phía những người theo chủ nghĩa Mác chứ không phải từ bản thân hệ thống tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế, trật tự xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng cực đoan và tàn nhẫn. Tư bản bị tập trung nhiều hơn vào trong tay một số ít người và ngày càng mang tính cướp đoạt chủng tộc. Ngày càng lan rộng tình trạng ngu si văn hóa, nguy cơ đẩy loài người vào cuộc chiến tranh hủy diệt, thậm chí có thể quét sạch loài người ra khỏi trái đất với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ. C. Mác đã từng nhận xét rằng, giới hạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản chính là tư bản, mà quá trình tái sản xuất không ngừng của tư bản là ranh giới mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua.
Từ những luận giải trên, T.Eagleton khẳng định rằng, sự phê phán của C. Mác đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống với quan điểm này, tác giả Fredrie Jamoson trong cuốn sách “Hệ tư tưởng của học thuyết”, xuất bản năm 2008 ở London từng viết: “Chủ nghĩa Mác dứt khoác đúng!”.
Vấn đề thứ hai: “Chủ nghĩa Mác có thể rất đúng đắn về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn thì kết quả lại là khủng bố, độc tài và giết người hàng loạt…Chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với thiếu tự do, nó còn đồng nghĩa với thiếu hàng hóa, bởi vì đây chắc chắn là hậu quả của việc xóa bỏ thị trường…”
Để phản bác sự phê phán trên, T. Eagleton đã minh giải bằng cả lý luận và thực tiễn rằng, có sự phê phán về chủ nghĩa Mác như trên là do: Sự non kém về lý luận, cách nhìn phiến diện, chụp mũ, lấy một vài hiện tượng, một vài mô hình trong thực tiễn không đúng với học thuyết của Mác để đổ lỗi cho C. Mác sai. Vì chính C. Mác cũng không bao giờ hình dung chủ nghĩa xã hội lại có thể hoàn thành ở một số nước lẻ tẻ, không có hệ thống và những nước đó đang trong tình trạng nghèo khổ cùng cực. Đây là một nghịch lý khi mà mô hình chủ nghĩa xã hội thời bao cấp lại cung cấp bằng chứng cho tính hợp lý của chủ nghĩa Mác chứ không phải bôi nhọ học thuyết của C. Mác. Tác giả chứng minh rằng, nếu cho chủ nghĩa xã hội là bất cập, thiếu tự do, nghèo đói, bóc lột thì chủ nghĩa tư bản – có lúc đạt được hiệu quả, nhưng nó làm được điều đó bằng cái giá kinh hoàng của nhân loại. Đó là sự mất tự do được ngụy tạo bằng hình thức tự do; là bất công trong cách phân biệt giàu nghèo ngày càng gia tăng; là nạn diệt chủng, nạn phân biệt chủng tộc; là cưỡng bức, tước đoạt, áp đặt, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, vô trách nhiệm với sự tồn vong của nhân loại… Tức là, con đường tư bản chủ nghĩa đang đi cũng là đang đe dọa phá hủy toàn bộ hành tinh này.
Thực chất thì, như T.Eagleton khẳng định: Những nhà nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử chiếm đoạt nô lệ, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm… Chủ nghĩa tư bản cũng được tôi luyện trong máu và nước mắt, chỉ có điều nó đã tồn tại đủ lâu để người ta quên đi nỗi khủng khiếp đó.” Do đó, để loài người có được bước phát triển cao hơn, an toàn, công bằng hơn về vật chất và tinh thần thì cần phải có một hình thái xã hội khác cao hơn xã hội tư bản.
Vấn đề thứ ba: “Chủ nghĩa Mác là một hình thức của thuyết quyết định luận,… Học thuyết về lịch sử của C. Mác chỉ là một phiên bản thế tục của thuyết quyết định luận. Nó công kích sự tự do và phẩm giá của con người đúng như những gì đã xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa”.
Bằng biện giải và chứng cứ thực tiễn, T. Eagleton đã bộc lộ ngụ ý cho rằng: C. Mác không phát minh ra chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản mà chính phong trào chống áp bức, bóc lột của giai cấp công nhân ở châu Âu đã đạt tới tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ông sống. Các khái niệm về giai cấp xã hội, ý niệm về giai cấp vô sản cũng là những sản phẩm khoa học quen thuộc của nhiều nhà tư tưởng thế kỷ XIX như Hegel, William Thompson. C. Mác chỉ là người đã định nghĩa lại một cách cẩn trọng, tỉ mỉ toàn bộ những khái niệm ấy. Trong hệ tư tưởng của C. Mác có hai học thuyết chính: Một là, vai trò cơ bản của kinh tế trong đời sống xã hội. Hai là, ý niệm về sự kế tiếp nhau của phương thức sản xuất trong suốt quá trình lịch sử.
T.Eagleton đã phân tích đầy sức thuyết phục về sự cần thiết phải hiểu đúng, hiểu đủ về tuyên bố nổi tiếng của C. Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh gia cấp.” Ở đây phải hiểu đúng tư tưởng của C. Mác rằng, đấu tranh giai cấp là phần cơ bản nhất, là động lực trực tiếp của lịch sử nhân loại.
Tác giả nêu nhiều cứ liệu lịch sử để luận giải mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, khẳng định sự chiến thắng của lực lượng sản xuất trước quan hệ sản xuất, từ đó đi đến khẳng định tư tưởng của C. Mác về sự sụp đổ của giai cấp tư sản và chiến thắng của gia cấp công nhân là “tất yếu như nhau”. Và như vậy, một khi chủ nghĩa tư bản hoàn toàn thất bại thì tất yếu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sẽ chiến thắng, nhưng không phải “ngủ yên” như thuyết quyết định luận để chiến thắng, mà phải hành động và hành động sáng tạo để làm nên lịch sử. Đây là yếu tố khác nhau cơ bản giữa học thuyết Mác và thuyết quyết định luận.
Vấn đề thứ tư: “Chủ nghĩa Mác là giấc mơ về xã hội không tưởng. Nó đặt niềm tin vào một xã hội hoàn hảo, không có khổ cực đau buồn, bạo lực và mâu thuẫn…Cách nhìn nhận ngây thơ một cách đáng ngạc nhiên này bắt nguồn từ niềm tin ấu trĩ vào bản chất con người. Người ta đơn giản cho rằng, cái xấu xa trong con người không tồn tại… Chính viễn cảnh ngây ngô của C. Mác về tương lai phản ánh sự phi thực tế đến vô lý trong toàn bộ hệ thống quan điểm chính trị của ông”.
Tác giả công trình Tại sao Mác đúng? đã phân tích từ góc độ nhận thức luận về quá khứ, hiện tại, tương lai để khẳng định rằng sự phê phán C. Mác về những vấn đề trên là không đúng. T. Eagleton đã phân tích, chỉ ra sự khác nhau giữa C. Mác và những nhà không tưởng khác. Theo ông, C. Mác có kế thừa các triết gia không tưởng như Charles Fourier, Saint Simon và Robert Owen, nhưng ông phản đối tư tưởng của họ trên nhiều chiều cạnh, trong đó có vấn đề cốt yếu là niềm tin của những triết gia không tưởng về việc giành thắng lợi trước đối thủ chỉ toàn bằng sức mạnh của lý lẽ. Xã hội đối với họ là một cuộc đấu tranh tư tưởng chứ không phải sự đấu tranh vì lợi ích vật chất. Tác giả cũng lược khảo cách nhìn về tương lai không đúng đắn của nhiều học giả khác. Từ đó khẳng định rằng, vấn đề đối với C. Mác không phải là mơ mộng về một tương lai tốt đẹp, mà là giải quyết mâu thuẫn hiện tại đang cản trở sự xuất hiện một tượng lai tốt đẹp hơn. C. Mác khẳng định, tương lai là tất yếu. Ông phác thảo ra một tương lai mà hình ảnh thật sự của tương lai (xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa) chính là sự thất bại của hiện tại. Ở tương lai đó, nội dung sẽ nhiều hơn hình thức.
Tác giả so sánh những nhà tư tưởng có những quan điểm khác nhau về sự phát triển của lịch sử loài người, về bản chất của con người. Ông khẳng định rằng, C. Mác luôn tin vào bản chất thực sự của con người và tin con người có thể biến đổi những điều kiện hiện tồn của mình trong quá trình mà ta gọi là lịch sử. Khi làm được điều đó, con người sẽ biến đổi, hoàn thiện chính mình. Tức là, thay đổi không phải là mặt đối lập của bản chất con người, vì con người là loài sáng tạo, cởi mở và chưa hoàn thiện cho nên con người luôn khát vọng vươn tới tương lai tốt đẹp hơn. 
Nếu người ta phê phán khái niệm bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, thì Eagleton đã chỉ ra rằng: Chủ nghĩa xã hội không phải là tất cả mọi người đều mặc cùng một bộ quần áo may sẵn. Chính chủ nghĩa tư bản tiêu dùng đã khoác những bộ đồng phục lên công dân của mình…” Và cuối cùng, ông mượn lời của một tác giả khác – Theodor Adorno để trả lời sự phê phán C. Mác là nhà triết học không tưởng: C.Mác là kẻ thù của không tưởng chính vì tính hiện thực trong tư tưởng của ông”.
Vấn đề thứ năm: “Chủ nghĩa Mác quy mọi vấn đề về kinh tế. Chủ nghĩa Mác chỉ là một dạng của thuyết quyết định luận về kinh tế… Khi quan điểm của C. Mác bị chi phối bởi kinh tế học như vậy, C. Mác đã trở thành một hình ảnh nghịch đảo về hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông từng lên án”.
Tác giả Eagleton đã minh giải rằng, những người phê phán chủ nghĩa Mác đã mạo danh các loại học thuyết như: thuyết đa nguyên, thuyết quyết định luận kinh tế, thuyết kinh tế về lịch sử, thuyết giản hóa luận kinh tế,… để cho rằng chủ nghĩa Mác quy mọi vấn đề về kinh tế rõ ràng là cố chấp, “đơn giản hóa vô lý và lố bịch”. Ông đã lược khảo các tác phẩm của C. Mác, phân tích từng khía cạnh tư tưởng của C. Mác, trên cơ sở đó chỉ ra rằng, theo C. Mác, hoạt động mang tính lịch sử đầu tiên chính là sản xuất ra các phương tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người. Sau đó con người mới học để chơi đàn ban-giô, viết nên những vần thơ trữ tình hay trang hoàng những mái vòm. Cơ sở của văn hóa chính là lao động. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không có nền văn minh. Chính cách con người sản xuất ra đời sống vật chất của mình sẽ đặt ra giới hạn cho các thiết chế văn hóa, pháp luật, chính trị và xã hội mà con người tạo ra. C. Mác nói tổng quát hơn trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức: “Giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”.
T.Eagleton đã nêu ra hàng loạt dẫn chứng để đi đến xác tín rằng: Chính chủ nghĩa tư bản chứ không phải chủ nghĩa Mác mới theo thuyết giản hóa luận kinh tế. Chỉ có chủ nghĩa tư bản mới tin vào sản xuất vì lợi ích đơn thuần và tin vào nội hàm hẹp hơn của khái niệm “sản xuất”. 
Tác giả cũng phân tích kỹ học thuyết lịch sử của C. Mác, phân tích rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đấu tranh giai cấp, tìm hiểu kỹ quan niệm của C. Mác về cuộc sống con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa – đó là cuộc sống tốt đẹp, trong đó lao động được giải phóng khỏi sự nhọc nhằn, “khổ sai”, để trở thành nhu cầu sống lành mạnh của con người. Nói cách khác, chính C. Mác là người mong muốn một xã hội mà trong đó kinh tế không còn chi phối và tiêu tốn nhiều thời gian và sức lực nữa”. Từ những luận giải đó, T.Eagleton khẳng định rõ rằng, cách hiểu chủ nghĩa Mác quy mọi vấn đề về kinh tế là sự đơn giản hóa chủ nghĩa Mác một cách ngớ ngẩn”.
Vấn đề thứ sáu: “C. Mác là một nhà duy vật đơn thuần… Ông không quan tâm đến các khía cạnh tinh thần của con người và coi ý thức của con người là sự phản ánh của thế giới vật chất… Chủ nghĩa Mác làm cạn kiệt hết tất cả những gì quý giá nhất thuộc về con người, thu gọn chúng ta thành một mớ lổn nhổn vật chất bị chi phối bởi ngoại cảnh của chúng ta…”.
T. Eagleton đã dành nhiều công sức khảo cứu các trào lưu tư tưởng triết học trước C. Mác, đặc biệt là tư tưởng của các nhà duy vật thời kỳ Khai sáng thé kỷ XVIII. Tác giả phân tích mối quan hệ giữa thể xác với tư duy của con người, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng; phân tích kỹ những ngộ nhận về tư duy lịch sử, duy vật biện chứng và sự vu khống chủ nghĩa Mác liên quan đến những vấn đề này. Từ đó, T.Eagleton khẳng định rằng, C. Mác là một trong những bộ óc vĩ đại nhất thời hiện đại. C. Mác đặc biệt dị ứng với những ý tưởng ngông cuồng. Ông là một nhà tư tưởng lãng mạn nhưng luôn cảnh giác trước những gì trừu tượng, đồng thời luôn luôn say sưa với những gì cụ thể, rõ ràng. Học thuyết Mác không chỉ là sự giải thích thế giới, mà quan trọng hơn, nó còn là công cụ để cải tạo thế giới, làm cho con người phát triển từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do. Đó chính là cái làm nên sự khác biệt và cũng đồng thời là sự vĩ đại của học thuyết Mác, điều mà chính ông đã nói đến trong Luận cương thứ mười một về Phoiơbắc[1].
Tác giả còn chứng minh, C. Mác là một nhà tư tưởng đạo đức xuất chúng. Theo C. Mác, cái thứ đạo đức thống soái trong xã hội tư bản – cái tư tưởng cho rằng tôi sẽ chỉ phục vụ anh chừng nào tôi được lợi – là phong cách sống đáng ghê tởm. Những phân tích và chứng minh đó cũng đồng thời là cơ sở để khẳng định, tư tưởng của C. Mác về tôn giáo và tâm linh cũng vượt lên trên những ngộ nhận về chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết học của C. Mác.
Vấn đề thứ bảy: “Nỗi ám ảnh chán ngắt về giai cấp đã khiến chủ nghĩa Mác quá ư lạc hậu. Những người theo chủ nghĩa Mác dường như đã không để ý rằng hình ảnh giai cấp xã hội đã thay đổi không còn nhận ra so với ngày C. Mác viết tác phẩm của mình…”.
Để phản bác có sức thuyết phục sự phê phán đối với chủ nghĩa Mác về vấn đề này, T. Eagleton đã đi sâu phân tích nhận thức về giai cấp. Tác giả luận giải về lịch sử hình thành giai cấp trong xã hội, về các giai cấp và bản chất cơ bản của các giai cấp; về các quan điểm, nhận thức khác nhau về khái niệm giai cấp, giai cấp xã hội. Từ những sự minh giải trên, tác giả khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác không định nghĩa giai cấp theo phong cách sống, địa vị, thu nhập, giọng nói, nghề nghiệp hay tình trạng gia đình. Với C. Mác, giai cấp không phải là vấn đề anh cảm thấy thế nào mà là anh đang làm gì, anh đang đứng ở đâu trong một phương thức sản xuất cụ thể.
Tác giả luận giải về quá trình hình thành giai cấp công nhân, khẳng định chủ nghĩa Mác không đặt trọng tâm vào giai cấp công nhân chỉ vì nhìn thấy một số ưu điểm của lao động, cũng không đặt tầm quan trọng chính trị vào giai cấp công nhân vì họ được cho là bị chà đạp nhất trong các nhóm xã hội, mà điểm quyết định nhất chính là giai cấp công nhân có được vị trí trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì ở trong hệ thống đó nên giai cấp công nhân quen với cách làm việc được chủ nghĩa tư bản tổ chức, trở thành một lực lượng có kỹ năng, có ý thức tập thể và chính trị tỉnh táo. Họ là những người không thể thiếu được đối với sự thành công của chủ nghĩa tư bản nhưng lại có lợi ích vật chất bị chủ nghĩa tư bản làm cho suy giảm. Chính họ mới có khả năng tiếp quản và vận hành nền sản xuất vì lợi ích của tất cả mọi người, mang sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và giải phóng tất cả mọi người. Tác giả cũng phân tích rõ những tiên liệu của C. Mác về sự phát triển của khoa học-công nghệ sẽ làm gia tăng quá trình vô sản hóa những nhà chuyên môn, cùng với tình trạng tái vô sản hóa rất nhiều công nhân công nghiệp. Và như vậy, lực lượng giai cấp công nhân sẽ ngày càng lớn mạnh hơn nhiều. Vậy nên luận thuyết về sự tiêu vong của giai cấp công nhân là một sự phóng đại thái quá, phi thực tế. 
Vấn đề thứ tám: “Những người mácxít là những người cổ vũ cho hành động chính trị bạo lực. Họ không tán thành biện pháp cải cách dần dần và ôn hòa, mà thay vào đó là sự lựa chọn những cuộc hỗn loạn cách mạng vấy máu. Chỉ có một lực lượng thiểu số giai cấp tiên phong sẽ vùng lên, lật đổ chính phủ và áp đặt ý chí của mình lên đại đa số. Đây là một trong số những điều khiến cho chủ nghĩa Mác và dân chủ không thể song hành tồn tại…”.
Để phản bác lại sự vu khống này, T. Eagleton đã phân tích rõ khái niệm cách mạng và cải cách, vạch rõ mối liên hệ, sự giống và khác nhau giữa hai khái niệm này. Tác giả dẫn chứng hàng loạt cứ liệu từng có trong lịch sử để chứng minh rằng, rất nhiều cuộc cải cách – thường được coi là hòa bình, ôn hòa – lại làm bùng lên xung đột, đẫm máu, như phong trào dân quyền ở Mỹ. Ngược lại, rất nhiều cuộc cách mạng – thường được coi là bạo lực – lại diễn ra khá hòa bình như cuộc cách mạng bôn-sê-vích ở Nga năm 1917. Từ những luận giải về những quan điểm ngụy biện chống lại cuộc cách mạng này nhưng lại ủng hộ cuộc cách mạng khác, ông khẳng định chủ nghĩa tư bản, từ bản chất của nó, luôn đồng hành với chiến tranh toàn cầu (Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Chiến tranh thế giới lần thứ hai), với bóc lột thuộc địa, diệt chủng và nạn đói. Tác giả so sánh “quá trình đẫm máu” của chủ nghĩa tư bản với những sai lầm về bạo lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và khẳng định tính chất hòa bình của phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa quốc tế. Tác giả cũng phân tích rõ những nguyên nhân, những điều kiện dẫn đến thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhưng điều kiện cũng như bài học từ thực tế lịch sử về vấn đề bạo lực cách mạng. Từ sự luận giải của mình, tác giả khẳng định, chính những cuộc cách mạng có nhiều khả năng thành công nhất là những cuộc cách mạng ít bạo lực nhất” và “phong trào công nhân không phải là bạo lực mà là chấm dứt bạo lực”.
Chụp mũ cho cách mạng xã hội chủ nghĩa tính chất bạo lực cũng không khác gì sự vu khống rằng chủ nghĩa Mác và dân chủ không song hành tồn tại”. T. Eagleton đã viện dẫn thực tiễn lịch sử phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới, phân tích, lý giải tư tưởng của C. Mác để phản bác sự vu khống đó và đi đến kết luận: “Những cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là những cuộc cách mạng dân chủ. Chính giai cấp thống trị mới là nhóm thiểu số phi dân chủ”.
Vấn đề thứ chín: “Chủ nghĩa Mác tin vào một nhà nước nắm mọi quyền lực trong tay. Sau khi xóa bỏ tư hữu, những nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thống trị bằng quyền lực và bạo lực, và quyền lực đó sẽ chấm dứt tự do cá nhân…”.
Sức mạnh để phản bác lại những phê phán về C. Mác trong nhóm vấn đề trên là hiện thực không thiên vị trong tư tưởng của C. Mác, cả về lý luận và thực tiễn trong tiến trình lịch sử nhân loại. Để làm được điều này, T. Eagleton đã luận giải khái quát các quan điểm về nhà nước của các nhà triết học trước C. Mác và cùng thời với C. Mác; luận giải quá trình đúc kết kinh nghiệm, hình thành, phát triển lý luận về nhà nước trong tư tưởng của C. Mác; phân tích những phê phán của C. Mác về sự hà khắc của nhà nước tư bản; minh giải đầy sức thuyết phục tư tưởng của C. Mác về quyền lực và quyền lực nhà nước nói chung, quyền lực nhà nước tư bản, quyền lực nhà nước cộng sản chủ nghĩa. Ông chứng minh rằng, cái mà C. Mác hy vọng sẽ tiêu vong trong xã hội cộng sản chủ nghĩa không phải là nhà nước theo nghĩa là chính quyền trung ương mà là kiểu nhà nước với tư cách là một công cụ bạo lực. Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý hành chính sẽ tiếp tục sống mãi. C. Mác tin tưởng vào quyền làm chủ của nhân dân và “hài lòng” với cái bóng lờ mờ của nhà nước được gọi là dân chủ nghị viện. Ông coi dân chủ là quá vĩ đại, không thể giao nó cho một mình Quốc hội. Dân chủ phải có tính địa phương, mang tính nhân dân rộng rãi và xuất hiện ở tất cả các thể chế, các hình thức tự quản của xã hội. Nó phải được mở rộng cả trong đời sống kinh tế và đời sống chính trị; phải có nghĩa là sự tự chủ thực sự của nhân dân. Nhà nước mà C. Mác bảo vệ là sự cai trị của công dân đối với chính họ, không phải của thiểu số đối với số đông, tức là hòa tan nhà nước vào xã hội. Như thế tức là nhà nước không mang tính phe phái, một nhà nước công dân có tính tự giác cao. Điều này trái ngược hoàn toàn với những luận điểm phê phán chủ nghĩa Mác. 
Vấn đề thứ mười: “Chủ nghĩa Mác đã trở nên lỗi thời. Nó bị thay thế bởi các học thuyết khác như: phong trào nữ quyền, vấn đề bảo vệ môi trường, chính trị dân tộc, toàn cầu hóa, phong trào vì hòa bình…”.
T. Eagleton đã dày công khảo cứu các tác phẩm của C. Mác, sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác trong thực tiễn, khảo luận lịch sử phát triển chủ nghĩa tư bản, vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản để đi đến khẳng định rằng, những người phê phán C. Mác là những người hoặc không hiểu tầng nghĩa sâu xa trong triết học Mác, hoặc không đọc hết các tác phẩm của ông, hoặc cố tình vu khống ông vì mục đích chính trị.
Tác giả cũng luận giải cụ thể rằng, về các phong trào nữ quyền, vấn đề giới, phong trào giải phóng dân tộc, vấn đề gia cấp và dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình, đấu tranh bảo vệ môi trường, C. Mác đều có những đóng góp vượt trội trên cả bình diện tư tưởng và hoạt động thực tiễn. Đặc biệt, trên bình diện lý luận thì tư tưởng của ông ngày nay vẫn luôn tỏa sáng. Nhiều trang viết trong tác phẩm của C. Mác cũng như chính thực tiễn phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã chỉ ra rằng, chính những người mác xít, chứ không phải ai khác, đã và đang trở thành đội quân tiên phong của các cuộc đấu tranh vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại. Đó là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đấu tranh giải phóng phụ nữ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh bảo vệ môi trường… Khi vạch mặt, chỉ tên bản chất tàn phá sinh thái, sự chạy đua theo lợi nhuận, khả năng không thể nào tạo dựng được hòa bình thế giới của chủ nghĩa tư bản, T.Eagleton còn lớn tiếng kêu gọi: Nếu nhân loại chúng ta không hành động ngay từ bây giờ thì có lẽ chủ nghĩa tư bản sẽ là mồ chôn chính chúng ta”. 
*
*       *
Dường như trong khi luận giải, chứng minh và phản bác những ý kiến, quan điểm bôi nhọ, vu khống và những âm mưu nhằm hạ bệ C. Mác cùng tư tưởng của ông, T.Eagleton đã luôn luôn xuất phát từ một niềm tin không thể lay chuyển vào tính khoa học đúng đắn, tính chất nhân văn của Mác. Đó là một niềm tin được thành tạo bởi kiến thức văn hóa uyên thâm, sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện về C. Mác, về chủ nghĩa Mác, cũng như sự chiêm nghiệm thực tiễn lịch sử ở những tầng nấc sâu xa, phong phú.
Cần lưu ý rằng, tác giả cuốn sách Tại sao Mác đúng? là giáo sư văn học nên nội dung cuốn sách được trình bày bằng bút pháp linh hoạt, gần gũi với phong cách ngôn ngữ nghị luận văn học hoặc chính luận báo chí hơn là cách diễn đạt mang tính chất luận lý chặt chẽ mà người ta thường thấy trong các tác phẩm lý luận chính trị của các nhà nghiên cứu. Nhiều chi tiết được tác giả trình bày bằng những hình ảnh ẩn dụ, sự so sánh với ngụ ý xa xôi và thậm chí cả những ngôn từ đôi khi mang lại cho người đọc cảm giác về sự hoa mỹ, khoa trương. Điều đó cũng mang lại những hạn chế nhất định do việc chuyển ngữ không thể chuyển tải đầy đủ, hoàn thiện về ngữ nghĩa và cả khó khăn cho người đọc trong việc tiếp nhận các nội dung trình bày với mạch cảm xúc phong phú của tác giả. Song nếu đọc kỹ, thì sẽ nhận ra rằng, đằng sau mỗi hình ảnh, mỗi ẩn dụ, mỗi sự so sánh, mỗi ngôn từ hoa mỹ mà tác giả Eagleton lựa chọn dùng trong tác phẩm đều gợi mở cho người đọ suy nghĩ nhiều chiều và đặc biệt là đều ẩn chứa trong đó sự say sưa, nhiệt thành, một tấm lòng trân trọng, khâm phục của tác giả đối với C. Mác – một bậc thiên tài của nhân loại, cũng như đối với chủ nghĩa Mác mà Trong suốt lịch sử nhân loại, chưa có một phong trào, chính trị nào có tầm ảnh hưởng như phong trào mà Mác đã khởi xướng”. Hơn thế nữa, người ta vẫn có thể thấy rất rõ rằng, cuốn sách được viết ra với một sự tỉnh táo khoa học cần thiết, một thái độ trách nhiệm, không thiên vị và sự đánh giá lịch sử rõ ràng và công bằng.
Tại sao Mác đúng? ra đời vào thời điểm mà chủ nghĩa tư bản đang rung chuyển tận gốc rễ với cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với sự lúng túng về đường lối chính trị của nhiều chính thể tư bản bị quy định trực tiếp bởi cuộc khủng hoảng nợ công đang phủ bóng u ám lên đời sống xã hội cả một khu vực rộng lớn của châu Âu. Cho dù vậy, việc bảo vệ chủ nghĩa Mác đồng nghĩa với việc phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa ngay giữa thành trì của nó, cũng như việc phê phán những luận điểm, âm mưu chống Mác trước búa rìu dư luận ở châu Âu và phương Tây cũng không phải là một việc dễ chịu. Điều đó cho thấy sự nhạy cảm chính trị và sự dũng cảm khoa học của tác giả.
Cũng cần lưu ý rằng, tác giả là một học giả phương Tây không phải là người theo chủ nghĩa Mác (như chính tác giả thừa nhận) nên một số quan điểm, nhận xét trong tác phẩm còn mang tính cá nhân, có thể chưa hẳn đã hoàn toàn chặt chẽ về mặt học thuật, nhất là có những quan điểm không hoàn toàn phù hợp với quan điểm, tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên, xét về tổng thể có thể nói rằng Tại sao Mác đúng? là một tác phẩm có giá trị tham khảo tốt, mang lại cho chúng ta thêm một cách nhìn mới, một cơ sở mới để củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác với vai trò là nền tảng tư tưởng của công cuộc cách mạng xây dựng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cuốn sách cũng cho thấy một sự đánh giá trân trọng, phản ánh chiều dư luận tích cực trên thế giới, thể hiện thái độ đúng đắn, khách quan của thế giới trong việc kế thừa, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác vì sự phát triển tốt đẹp của nhân loại. 
Hà Nội, tháng 7 năm 2012
GS, TS Tạ Ngọc Tấn


Xem thêm…

Cảnh giác với những luận điệu chống phá bầu cử

19:25 |

Toàn cảnh Hội nghị Hiệp thương lần thứ Nhất bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV. (Ảnh: TTXVN)
Đã trở thành thông lệ, cứ mỗi dịp diễn ra sự kiện chính trị lớn của đất nước thì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, chống phá. Cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIV và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Nhiệm kỳ 2016 - 2021 lần này không phải là ngoại lệ. Chúng ta cần cảnh giác và chủ động đấu tranh làm thất bại mưu đồ đen tối đó.
 Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Nhiệm kỳ 2016 - 2021 là sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trong thời điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng vừa kết thúc thành công tốt đẹp. Thực hiện thành công cuộc bầu cử sẽ thiết thực góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Nhân dân cả nước ta, từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn đang tràn đầy niềm phấn khởi, háo hức chờ ngày hội lớn để thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, trách nhiệm chính trị đối với sự kiện trọng đại của Quốc gia, dân tộc. Thế nhưng, đi ngược lại với tinh thần đó, các thế lực thù địch và phần tử chính trị lại tỏ rõ thái độ hằn học, chống đối và xem đây là “cơ hội” để chống phá. Họ tung lên các trang mạng đủ loại thông tin xuyên tạc bản chất tốt đẹp của chế độ ta, Đảng ta. Họ phát tán nhiều tài liệu kích động phản đối Quy chế bầu cử Quốc hội và cho đó chỉ là “hình thức”. Thậm chí có kẻ đã tiếp tục xuyên tạc: Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, việc đề cử chỉ là “độc quyền của Đảng” và các tổ chức bầu cử là cánh tay “nối dài” của họ; rằng: “Việt Nam không có dân cử, dân bầu, chỉ có Đảng cử, Đảng bầu”; rằng ngoài “vài” người được Đảng lựa chọn “ngầm”, hầu hết những người tự ứng cử bị loại bỏ một cách “không thương tiếc”. Không những thế, họ còn tán phát nhiều tài liệu như: “Tuyên bố số 9 về quyền tự ứng cử Đại biểu Quốc hội của công dân”, “Tự ứng cử trong chế độ toàn trị”, v.v. hòng kích động, cổ súy cho quyền tự ứng cử của một số phần tử cơ hội, bất mãn, tạo ra lực lượng đối trọng trong Quốc hội. Đồng thời, kêu gọi các nhà “dân chủ” mạng hãy “tự ứng cử” vào Quốc hội, “hãy tập hợp thành từng nhóm để giám sát quá trình bầu cử” và hô hào “ký tên” ảo tung hô, ủng hộ cho người này, người kia, v,v. 
Chúng ta không lạ lẫm gì cái trò “phá rối”, “chọc gậy bánh xe” của những kẻ tự cho mình là người có “trách nhiệm” với dân, với nước. Việc họ hô hào, ủng hộ ai đó “tự ứng cử” không nhằm tham gia cuộc bầu cử với ý thức trách nhiệm của một công dân, đem đức độ, tài năng phục vụ cho sự phát triển của đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, mà chỉ với mục tiêu duy nhất là gây rối, kích động người dân “tẩy chay”, phá hoại cuộc bầu cử mà thôi. Theo họ, việc tự ứng cử là nhằm “Thực thi quyền ứng cử của mình, để phá bỏ “các thủ tục”, “mưu mẹo phi dân chủ” được thiết kế trong các khâu của quy định hiện hành như hội nghị cử tri…”. Thực tế cho thấy, tất cả những điều họ tung trên mạng không có gì khác, chỉ nhằm xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta nói chung, Hiến pháp, pháp luật, Quy chế bầu cử của Nhà nước ta nói riêng. Và mục tiêu cụ thể của họ là làm nhiễu loạn cuộc bầu cử sắp tới, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Thật nực cười cho những kẻ tự hợm mình là thông thái, hiểu biết về pháp luật lại đưa ra những phát ngôn trái với quy định của luật bầu cử và Hiến pháp đã ban hành. Họ thừa hiểu rằng, quyền tự do ứng cử đại biểu Quốc hội đã được quy định rõ ràng trong Hiến pháp, pháp luật và luôn được tôn trọng ở nước ta. Việc ứng cử, đề cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân các cấp được thực hiện một cách chặt chẽ theo Quy chế bầu cử, tiêu chí về phẩm chất, năng lực cán bộ của Đảng, yêu cầu hoạt động của Quốc hội và được tiến hành từ cơ sở thông qua các hội nghị cử tri, hội nghị hiệp thương chứ không một ai có thể tự tiện ứng cử vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân như họ từng rêu rao. Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử và tự ứng cử được thực hiện theo một quy trình thống nhất, trong đó phải bảo đảm việc tổ chức hiệp thương giữa các tổ chức chính trị - xã hội giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp theo đúng quy định của pháp luật. Đây là một nét ưu việt của chế độ dân chủ trong bầu cử và là thước đo trình độ dân chủ của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi, chỉ các tổ chức chính trị - xã hội mới có thể nhìn nhận bao quát được các nhóm xã hội theo các tiêu chí đã xác định, quy tụ sức mạnh của các thành viên, phát huy cao nhất quyền làm chủ của người dân; đồng thời, trao đổi để đi đến một cơ cấu đại biểu hợp lý đảm bảo cho các thành phần xã hội đều có đại diện trong Quốc hội mới. Còn những trường hợp tự ứng cử không có trong danh sách bầu cử là do họ không đủ các tiêu chí quy định sau khi đã thực hiện đầy đủ các bước thẩm định, hiệp thương theo Quy chế bầu cử chứ không hề có biểu hiện “mất dân chủ”, “Đảng cử, Đảng bầu” như một số người từng rêu rao.
Thực tiễn qua các kỳ bầu cử Quốc hội ở nước ta đã chứng minh quyền ứng cử, tự ứng cử luôn được bảo đảm, tôn trọng. Theo ông Nguyễn Văn Pha, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tại kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII (năm 2011), có tới 82 người tự ứng cử ở 22 tỉnh, thành phố được lập danh sách ở vòng 2 và đã có 15 người vào danh sách bầu cử Đại biểu Quốc hội. Trước đó, tại kỳ bầu cử Quốc hội khóa XII (năm 2007), có 30 người ứng cử vào đến vòng cuối cùng. Còn tại cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV lần này, dự kiến số người tự ứng cử sẽ tăng hơn so với các nhiệm kỳ trước, v.v. Thực tế này là minh chứng sinh động, thuyết phục nhất để bác bỏ hoàn toàn ý kiến trên các trang mạng xã hội và báo nước ngoài cho rằng, cuộc bầu cử Quốc hội ở Việt Nam chỉ là sân chơi “độc diễn” của Đảng, không có cửa cho các ứng cử viên tự do.
Trải qua hơn 70 năm kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng phát triển, tự hoàn thiện, đồng hành cùng dân tộc, thực sự là nơi xây nên nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, đưa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ lầm than lên địa vị chủ nhân của đất nước đang vững bước trên con đường xây dựng theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thông qua thực hiện chức năng của Quốc hội, quyền làm chủ của người dân luôn được đảm bảo và phát huy theo tinh thần quyền lực Nhà nước phải thuộc về nhân dân, địa vị chủ thể của dân với tư cách là chủ thể gốc của mọi quyền lực; những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của người dân đều được phát hiện và xử lý nghiêm. Hiến pháp 2013 đã tiếp tục khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,… Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Với tinh thần đó, qua mỗi cuộc bầu cử Quốc hội thực sự là dịp để người dân thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua lá phiếu bầu; những vấn đề chưa phù hợp trong quy chế, quy định bầu cử tiếp tục được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho quyền lực của người dân được thực hiện tốt hơn trên thực tế.  
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Nhiệm kỳ 2016 - 2021 lần này cũng vậy - đặt lên hàng đầu vấn đề quyền lực và quyền lợi của nhân dân. Điều đó, phải được thể hiện trong từng khâu, từng bước của quy trình bầu cử, vì thế càng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, đúng pháp luật. Với trách nhiệm là người lãnh đạo Nhà nước và xã hội, cũng như từ bản chất, truyền thống của mình, Đảng ta ý thức rất rõ điều đó nên đã sớm ban hành Chỉ thị 51-CT/TW về lãnh đạo bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Trong đó, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cuộc bầu cử theo tinh thần dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và thực sự là ngày hội của toàn dân; việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử và việc tự ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân phải bảo đảm theo đúng quy trình, quy định của pháp luật và Nghị quyết của Thường vụ Quốc hội, hướng dẫn của các cơ quan Trung ương có thẩm quyền. Những người đó phải đủ tiêu chuẩn, thực sự tiêu biểu, có quan điểm lập trường chính trị vững vàng; không đưa vào danh sách ứng cử người có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, có tư tưởng cục bộ, bảo thủ. Đồng thời, chú ý đến cơ cấu hợp lý.về số đại biểu là người đang công tác ở cơ quan đảng, nhà nước, lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, giảm hợp lý số đại biểu công tác tại cơ quan hành chính; tăng số lượng đại biểu chuyên trách; bảo đảm tỷ lệ người ứng cử là nữ, người dân tộc thiểu số, người ngoài Đảng theo đúng quy định của Luật Bầu cử; có tỷ lệ hợp lý đại biểu các tôn giáo, đại biểu tái cử, đại biểu trẻ tuổi, đại biểu là các nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sỹ, đại biểu xuất thân từ công nhân, nông dân, doanh nhân, đại diện các hiệp hội, nghiệp đoàn về các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Lãnh đạo tốt việc tổ chức hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác bầu cử; bảo đảm các điều kiện thuận lợi để mọi công dân thực hiện đầy đủ quyền ứng cử, bầu cử theo quy định của pháp luật.
 Công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc bầu cử; các quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân; về vị trí, vai trò của Quốc hội và hội đồng nhân dân trong bộ máy nhà nước; về vị trí, vai trò của người đại biểu nhân dân; về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả cũng phải hết sức chú trọng. Việc xây dựng các phương án bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân; ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật về bầu cử được quan tâm thực hiện, v.v.
Như vậy, cả trong Chỉ thị của Đảng, trong tổ chức Hội nghị hiệp thương, trong các khâu, các bước của quy trình bầu cử đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, diễn ra hết sức dân chủ, bình đẳng, đúng trình tự pháp luật nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của người dân, nâng cao chất lượng đại biểu, chứ không có chuyện như những người “bất đồng chính kiến”, những nhà “dân chủ mạng” phát tán, rêu rao. Mưu đồ của họ chỉ có thể đánh lừa được những người nhẹ dạ cả tin, chứ không thể lay chuyển được quảng đại người dân Việt Nam với niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước.
Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Nhiệm kỳ 2016 - 2021 thành công, các cơ quan chức năng, cấp ủy, chính quyền các cấp chắc chắn sẽ có không ít việc phải làm. Trong đó, cảnh giác và chủ động đấu tranh làm thất bại những thủ đoạn gây rối, xuyên tạc, bôi nhọ, hòng phá hoại cuộc Bầu cử của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là rất cần thiết, quan trọng.
TRÁNG A LÂM 
Nguồn: Tapchiqptd.vn
Xem thêm…


Thế hệ Hồ Chí Minh | Ban Quản lý Lăng Bác | Bảo tàng Hồ Chí Minh | Học viện Chính trị Quốc gia |