Home » Archives for 2017-10-08
Bộ môn LLCT & KHXHNV tổ chức Câu lạc bộ “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân”
02:50 |
Tối 29/9/2017 tại Hội trường 107 nhà 7 Học viện An ninh Nhân dân đã diễn ra Câu lạc bộ: “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân” do Tổ Chủ nghĩa xã hội khoa học và tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ môn LLCT & KHXHNV tổ chức cho lớp D48C.
Tới dự Câu lạc bộ có sự hiện diện của các quý vị đại biểu, lãnh đạo Bộ môn LLCT & KHXHNV; lãnh đạo Phòng Quản lý học viên; Bí thư Đoàn thanh niên Học viện; các đồng chí cán bộ, giảng viên và 200 tân sinh viên khóa D49.
Đây là hoạt động khoa học, là sân chơi bổ ích giúp sinh viên nắm vững và hiểu sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND cũng như bồi dưỡng niềm tin, lòng biết ơn của sinh viên đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; vững niền tin với con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn. Đây cũng là hoạt động thiết thực hưởng ứng Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” của Bộ Công an, đồng thời cũng là hoạt động chào mừng Khai giảng năm học mới 2017 – 2018.
Câu lạc bộ diễn ra với 04 phần thi: Dấu chân phía trước; tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND; giao lưu với khán giả và kể chuyện Bác Hồ với CAND.
Một số hình ảnh của cuộc thi
Bằng những tâm huyết của các thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn LLCT & KHXHNV cùng với lòng nhiệt tình, sức trẻ của các em sinh viên lớp D48C; Câu lạc bộ đã thành công tốt đẹp, đọng lại nhiều dư âm giữa giáo viên và học viên, gắn kết thầy và trò. Bạn Thanh Hằng đến từ trung đội B6 - D48 tâm sự: “Câu lạc bộ giúp chúng em hiểu nhiều hơn về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và càng yêu quý Bác hơn”. Lãnh đạo Bộ môn xác định, Câu lạc bộ là hoạt động thiết thực, bổ ích nhằm tăng cường hoạt động ngoại khóa cho sinh viên, góp phần vào rèn luyện khả năng diễn đạt, nghiên cứu, lý luận gắn với thực tiễn. Thời gian tới, Bộ môn sẽ tăng cường triển khai, mở rộng hình thức Câu lạc bộ học tập đối với sinh viên khóa D49 và với sinh viên hệ dân sự nhằm đổi mới phương pháp học tập, đem lại hiệu quả tích cực đối với sinh viên.
Bộ môn LLCT & KHXHNV.
Nhận diện "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực văn hóa
02:44 |
Từ khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhưng có sự thay đổi về thủ đoạn và sách lược.
Chúng tiến công ta mạnh mẽ hơn về tư tưởng - văn hóa, coi đây là mặt trận hàng đầu, là mũi nhọn đột phá, thọc sâu, vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển các lực lượng và phương tiện ở trong nước, tạo ra sự chống đối mạnh mẽ từ nội bộ Đảng, nội bộ xã hội ta, từng bước làm cho nhân tố chống đối bên trong phát triển để phá ta từ trong nước, trong lòng chế độ.
Chiến lược “Vượt trên ngăn chặn” và “Bao vây cấm vận” được thay bằng chiến lược “Triệt tiêu kẻ thù”. Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược này là áp dụng các biện pháp “can dự”, “tiếp cận”, lôi kéo đối phương từ đối đầu sang đối thoại, tăng cường hợp tác hoặc hoà nhập với phương Tây, theo sự chỉ huy hoặc khống chế của một trung tâm quyền lực cụ thể. Tức là, chúng không đứng ngoài hò hét chống phá mà xâm nhập vào ta để đánh ta từ trong đánh ra, làm cho ta “tự diễn biến”, “tự sụp đổ”, “Cộng sản tự diệt cộng sản”.
Các trung tâm phá hoại tư tưởng, văn hóa rất coi trọng các phương tiện truyền thông đại chúng và tuyên truyền kiểu “rỉ tai”, kích động; đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình, băng nhạc,... có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam; chỉ đạo bọn “bồi bút”, cơ hội viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam.
Hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch thông qua “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa đối với nước ta trong những năm vừa qua được thể hiện qua các thủ đoạn và nội dung chủ yếu như xuyên tạc, bôi nhọ, đả kích bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là truyền thống văn hóa, văn nghệ cách mạng, lối sống XHCN - những giá trị tinh thần của chế độ XHCN.
Truyền bá văn hóa, lối sống tư sản phương Tây vào nước ta - lối sống thực dụng, vụ lợi cá nhân, sùng bái đồng tiền, dâm ô, trụy lạc phi nhân tính... Kích thích sự phục hồi, phát triển lối sống mê tín dị đoan, tôn thờ chủ nghĩa hữu thần; tìm hiểu, móc nối, mua chuộc, lôi kéo, kích động trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, hữu khuynh cực đoan, sa đọa về phẩm chất đạo đức... vào con đường chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tìm cách thao túng, lũng đoạn, chi phối các cơ quan, tổ chức văn hóa, văn nghệ làm cho văn hóa, văn nghệ đi chệch định hướng XHCN.
Tác động của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ở nước ta trong những năm qua được thể hiện trên những phương diện chủ yếu sau:
Phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với chế độ XHCN ở Việt Nam
Lợi dụng sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch đã tấn công quyết liệt vào nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đả kích đường lối cách mạng của Đảng, bài xích định hướng XHCN.
Chúng phát hiện những người bất mãn trong nội bộ Đảng, bộ máy Nhà nước để tìm cách lôi kéo, lái những người này đi theo quan điểm của chúng làm nòng cốt để chuyển hóa từ bên trong; kích động tâm lý hoài nghi dẫn tới phủ định CNXH.
Thực tế đã có một bộ phận nhân dân, trong đó có một số cán bộ, đảng viên đã dao động, giảm lòng tin đối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như con đường mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Một số kẻ cơ hội, xét lại, phản bội đã tung ra những bài viết xuyên tạc, vu khống, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Những việc làm ấy đã gieo hoang mang, hoài nghi cho không ít người.
Bằng cách đó, họ muốn tạo nên một sự “tự diễn biến” từ bên trong xã hội ta, trước hết là “tự diễn biến” về nhận thức, tư tưởng, từ đó dẫn đến những “tự diễn biến” về các mặt khác.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, sinh viên, học sinh phai nhạt lý tưởng cách mạng, thờ ơ chính trị, giảm sút và mất lòng tin vào thắng lợi của CNXH, vào khả năng lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, dẫn tới những nhận thức lệch lạc, ngả nghiêng về bản lĩnh chính trị, lập trường quan điểm, đã phụ họa với những quan điểm sai trái, phát ngôn theo luận điệu của các thế lực thù địch, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng “vấn đề nhân quyền” để phá hoại về tư tưởng đối với Việt Nam, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của chúng ta, đặt điều kiện hòng ép ta thoả hiệp, nhượng bộ về chính trị, thay đổi đường lối của ta, đi theo quỹ đạo của chúng, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để tuyên truyền, kích động dư luận thế giới cô lập Việt Nam, gieo rắc sự nghi ngờ trong các công dân Việt Nam đối với Nhà nước, kích động và khơi dậy sự phản kháng của những kẻ bất mãn, những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, những người trước đây cộng tác với chế độ cũ, hiện đang còn ở lại Việt Nam.
Các thế lực thù địch còn vu khống, xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo, dân tộc, chính sách đối với văn nghệ sĩ. Đó là những đòn tấn công của các thế lực thù địch để tạo ra những lực lượng chống đối ngầm trong nội bộ nhân dân ta. Nếu không được vạch trần, ngăn chặn, nó có khả năng làm rối loạn xã hội, tạo cơ hội cho “diễn biến hoà bình” phát triển.
Tác động chống phá về văn hóa
Trong tác động phá hoại về văn hóa, các thế lực thù địch tập trung phá hoại truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa cách mạng, các chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN. Các thế lực thù địch rất coi trọng tác dụng “diễn biến hòa bình” của các loại “chất độc tinh thần” tư sản.
Do vậy, chúng tìm mọi phương thức để các sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập vào nước ta. Chúng sử dụng các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động để đầu độc quần chúng nói chung, đặc biệt là thế hệ thanh niên ở nước ta nói riêng, làm chuyển đổi giá trị thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, chuyển đổi các thang bậc giá trị của xã hội theo chiều hướng xấu; âm mưu biến thế hệ trẻ thành công cụ và lực lượng xã hội chủ yếu của “diễn biến hòa bình”.
Tác động phá hoại về đạo đức, lối sống
Đó là tệ sùng ngoại, coi thường những giá trị văn hóa của dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, ham muốn làm giàu, ham muốn quyền lực cực đoan... đã và đang làm băng hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Khuynh hướng này hết sức nguy hiểm, có sức phá hoại mạnh, tác động trực tiếp đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của các tầng lớp xã hội. Đáng lưu ý là lối sống thực dụng đang có chiều hướng gia tăng.
Điều đó được biểu hiện ở chỗ: Từ chạy theo lợi ích vật chất dẫn đến sự lạm dụng địa vị, quyền lực đang đảm nhiệm để mưu cầu lợi ích cá nhân; đặt giá trị vật chất ở vị trí cao trong thang giá trị cuộc sống. Đó là một nguyên nhân dẫn đến suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ có chức, có quyền. Đó là tệ tham nhũng, lãng phí; nạn quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa, địa phương chủ nghĩa, bè phái, mất đoàn kết.
Đây là những vấn đề bức xúc làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người ngày một tăng. Đó là “giặc nội xâm”, có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ mà chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn và quét sạch.
Tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa thể hiện ở chỗ: Một là, các thế lực thù địch đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá rã niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN.
Hai là, với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” thông qua tác động trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho đối phương mất cảnh giác, dễ bị cám dỗ, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng truyền bá các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị.
Ba là, với nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên Việt Nam bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, cổ xúy lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan chính trị, xa rời lý tưởng; tạo ra một tầng lớp đông đảo “phi chính trị hóa”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền.
Bốn là, thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các nước đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Năm là, với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền…
PGS, TS Bùi Đình Bôn
Nguồn: http://hvctcand.edu.vn
Học tập tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh trong xây dựng người cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ
02:41 |
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã để lại một di sản vô cùng quý giá cho Đảng, Nhà nước, nhân dân và các lực lượng vũ trang, đó là một hệ thống quan điểm, tư tưởng, phương pháp cách mạng, phong cách và đạo đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm và tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta trong từng giai đoạn cách mạng. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ là học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Phương pháp Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận khoa học được hình thành từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba thành tố: Một là, các giá trị của bài học dựng nước và giữ nước của ông cha ta; hai là, những tinh hoa của nhân loại được chắt lọc từ kinh nghiệm đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và ba là, thực tiễn cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn. Phương pháp Hồ Chí Minh là những phương thức, cách thức, bước đi thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, để vận dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, trở thành phương châm cho mọi hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là linh hồn của phương pháp Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng Hồ Chí Minh đã sản sinh ra phương pháp Hồ Chí Minh mang đậm tính cách mạng, khoa học và sáng tạo. Nói cách khác, tư tưởng là nơi phương pháp đã được khái quát hóa và phương pháp là nơi thực tiễn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp Hồ Chí Minh là một bộ phận trong cuộc đời thanh cao, giản dị và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Đó là hệ tư tưởng, các cách thức, biện pháp, quy trình hợp thành các nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động, làm nên phong cách Hồ Chí Minh.
Phong cách Hồ Chí Minh chính là lề lối, cách thức, phong thái trong tư duy, sinh hoạt, học tập, giao tiếp, ứng xử của Người. Phong cách Hồ Chí Minh gắn liền với tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng. Đó là phong cách của một con người “có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí mẫn tuệ, cái hành mực thước”. Phong cách của Người được thể hiện rõ trong tư duy, trong cách diễn đạt, trong hành động và sinh hoạt hằng ngày như làm việc, giao tiếp, ứng xử... Đó là phong cách của một lãnh tụ, đồng thời là phong cách của một nhà văn hóa kiệt xuất, danh nhân văn hóa nhân loại.
Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện, lao động, sinh hoạt, công tác, chiến đấu đã trở thành niềm tin, lẽ sống của cả dân tộc Việt Nam nói chung, lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng. Những năm qua, Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đã có nhiều cuộc vận động, phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, như: “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”; phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”; cuộc vận động “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”... Trong đó, cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” là một chủ trương hết sức đúng đắn và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong tình hình hiện nay, góp phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Quá trình học tập, vận dụng tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh là học tập ở Bác đạo đức cách mạng, phương pháp cách mạng đặc biệt hiệu quả, các phong cách mang tính cách mạng và khoa học, các phương châm xử thế linh hoạt, đã trở thành nghệ thuật trong việc lựa chọn những vấn đề cần tập trung giải quyết, những công việc cần làm và cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu đặt ra một cách hiệu quả. Nghiên cứu vận dụng phương pháp Hồ Chí Minh không thể tách rời tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh; càng không thể tách rời đạo đức, lối sống và nhân cách Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh hiện nay, trước những diễn biến hết sức phức tạp, đa dạng của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; trong cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, lực lượng Công an nhân dân cần học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, học tập ở Bác đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người dạy: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức tính: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người”. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh là học ở Bác những tiêu chuẩn của đạo đức cách mạng, đó là:
Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất bao trùm nhất và quan trọng nhất đối với lực lượng Công an và trong nhân dân. Với Công an nhân dân, Người dạy: “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành”.
Lòng yêu thương con người. Đây là phẩm chất cao cả và cao đẹp nhất, xuất phát từ truyền thống của dân tộc Việt Nam: “Bầu ơi thương lấy bí cùng”. Người dạy Công an nhân dân: “Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ”, “ Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất Bác nhắc đến nhiều nhất. Trong Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, Người đề cập phẩm chất này đầu tiên: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”.
Tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng. Người dạy: “Quan san muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là cái “gốc”, là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng. Bản thân Bác là một tấm gương sáng ngời và mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng. Đồng thời, Người luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang nhân dân.
Xây dựng đạo đức cách mạng người Công an nhân dân là rèn luyện bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trọn đời trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; dũng cảm, không sợ khó khăn, gian khổ, hy sinh; tuyệt đối không được lưng chừng, nghiêng ngả, dao động về lập trường, tư tưởng. Công an nhân dân là lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phục vụ lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, bất luận trong hoàn cảnh nào, người Công an nhân dân cũng phải nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, các loại tội phạm, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Đó là bản lĩnh chính trị của người Công an nhân dân: “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành”; “Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”. Xây dựng bản lĩnh chính trị cho người Công an nhân dân là mục tiêu quan trọng nhất trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
Thứ hai, học tập tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, gắn liền tình thương yêu dân tộc với tình thương yêu giai cấp và nhân loại bị áp bức, bóc lột. Tính nhân văn Hồ Chí Minh vừa mang tính dân tộc, tính giai cấp, vừa mang tính thời đại. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với tình cảm, lý tưởng, hành động cách mạng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Vì vậy, nó mang tính thực tiễn sâu sắc, tính thời đại rộng lớn.
Quán triệt, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng người Công an nhân dân “bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” hiện nay gồm các nội dung sau:
(1) Xây dựng lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có tinh thần tự hào dân tộc, lòng yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nguyện suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ chủ nghĩa xã hội và nhân dân, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
(2) Giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có kỹ năng vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Phải nắm vững các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, các phương châm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp, đối sách của ngành Công an và vận dụng có hiệu quả trong cuộc “đấu trí, đấu lực, đấu pháp” với các thế lực thù địch, các cơ quan đặc biệt nước ngoài và bọn phản động, bọn tội phạm xâm phạm an ninh, trật tự.
(3) Có quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, được dân tin tưởng, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ tận tình; có năng lực vận động và tổ chức quần chúng tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân ở cơ sở vững mạnh.
(4) Có phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác, có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc, luôn suy nghĩ, tìm tòi đổi mới, sáng tạo trong công tác, chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
(5) Học tập tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong bản chất con người, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác. Đó là tình yêu thương, quý trọng, quan tâm, bao dung, độ lượng đối với con người và niềm tin vững chắc vào sức mạnh của con người, tạo mọi điều kiện để con người phát triển toàn diện, phát huy mọi năng lực sáng tạo của mình.
Ngày nay, thấm nhuần và học tập tư tưởng đạo đức cách mạng và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, cụ thể hóa thành lý tưởng và hành động trở thành niềm tin, lý tưởng, lẽ sống của Công an nhân dân; là một yêu cầu hết sức bức thiết, có ý nghĩa thực tiễn và thời đại sâu sắc, nhất là trong bối cảnh cục diện thế giới đang có nhiều biến động; các thế lực thù địch gia tăng các hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam; sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân đang đứng trước những nguy cơ, thách thức mới; nội bộ chúng ta lại đang có những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Thứ ba, cần nghiên cứu, thấm nhuần, vận dụng sáng tạo phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng, nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với lực lượng Công an nhân dân. Theo đó, phải trên cơ sở mục đích “xây dựng người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” để lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, hiệu quả trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm hơn 70 năm xây dựng lực lượng Công an nhân dân và phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước hiện nay. Việc xác định các phương pháp cụ thể xây dựng người Công an nhân dân phải quán triệt và dựa vào các nguyên tắc, phương pháp xây dựng và giáo dục đạo đức của Bác, đó là: “Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời”, “nói đi đôi với làm”, “xây đi đôi với chống”; “lý luận gắn liền với thực tiễn”, “học đi đôi với hành”. Đồng thời, phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức, khắc phục tính hình thức, đơn điệu, tránh áp đặt theo kiểu mệnh lệnh, hành chính, thiên về lý trí mà ít quan tâm đến những tác động về mặt tình cảm; bồi dưỡng tâm hồn, làm phong phú và sâu sắc thêm tinh thần, tình cảm của người được giáo dục. Coi trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân trong môi trường xã hội, trong thực tiễn công tác, chiến đấu. Có tu dưỡng, rèn luyện, giáo dục thường xuyên, liên tục trong thực tiễn, trải qua những khó khăn gian khổ, thử thách mới giúp cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân trải nghiệm, xây dựng được bản lĩnh cách mạng kiên cường của người Công an nhân dân “trung với nước, hiếu với dân” và những phẩm chất “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Cần tổ chức biên soạn các tài liệu phục vụ thông tin tuyên truyền, giáo dục trong toàn lực lượng và đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Công an nhân dân. Nội dung giáo dục phải toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ; đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu.
Thứ tư, phải thường xuyên học tập, vận dụng phong cách Hồ Chí Minh; bao gồm phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc, phong cách sinh hoạt và phong cách ứng xử. Nét bao trùm trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là độc lập, sáng tạo, tự chủ. Hồ Chí Minh luôn tìm hiểu quy luật vận động của sự vật để có cách hành động phù hợp; gắn lý luận với thực tiễn. Trong phong cách lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mẫu mực về phong cách làm việc sâu sắc, đổi mới; lời nói phải đi đôi với việc làm, lý luận gắn liền với thực tiễn. Người luôn tuân thủ nguyên tắc dân chủ, tập trung; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trong sinh hoạt, phong cách Hồ Chí Minh là giản dị, gần gũi, thân tình với mọi người và luôn lạc quan, vui vẻ. Người luôn có phong cách giao tiếp, ứng xử rất văn hóa, văn minh. Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một con người vĩ đại nhưng gần gũi. Phong cách của Người luôn luôn là tấm gương sáng để lực lượng Công an nhân dân học tập, noi theo.
Trong quá trình học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, các cấp ủy và thủ trưởng các đơn vị trong lực lượng Công an nhân dân phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc học tập thấm nhuần tư tưởng, noi theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các đơn vị, địa phương mình. Đồng thời, phải học tập, thực hành văn hóa giao tiếp, ứng xử Hồ Chí Minh, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, góp phần xây dựng hình ảnh người Công an nhân dân đẹp về bản lĩnh, trí tuệ, phẩm giá với đầy đủ các đức tính “cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công vô tư” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải thường xuyên nghiên cứu, học tập tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh và chăm lo tu dưỡng, rèn luyện bản thân theo những phương pháp Người đã áp dụng trong công tác, chiến đấu, lao động, học tập, sinh hoạt; lấy Sáu điều Bác dạy Công an nhân dân làm kim chỉ nam và mục tiêu phấn đấu, rèn luyện.
Xây dựng người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ chính là yếu tố quyết định nhất trong việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân theo tiêu chí “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, là yêu cầu tiên quyết đảm bảo giành thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, xây dựng người chiến sĩ công an về đạo đức cách mạng, tài năng, sáng tạo, nâng cao đạo đức nghề nghiệp để hoàn thiện cả đức lẫn tài là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, vận dụng phương pháp Hồ Chí Minh là con đường đúng đắn nhất để góp phần “xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” trong giai đoạn hiện nay.
Thiếu tướng, GS.TS Bùi Quảng Bạ
Chuyên viên cấp cao Học viện Chính trị CAND
Nguồn: http://hvctcand.edu.vn
Đấu tranh phê phán quan điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của các học giả chống chủ nghĩa xã hội hiện nay.
02:39 |
1. Những quan điểm nhằm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Phân tích thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền dân chủ trong lịch sử, đặc biệt là những quy luật của nền dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng: Đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công là hiện thân của sự ra đời nền dân chủ mới, vì Cách mạng đã đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga từ địa vị những người nô lệ bị bóc lột và áp bức lên địa vị những người chủ của xã hội. Theo đó, việc thiết lập chính quyền nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, việc Đảng Cộng sản khẳng định trong thực tế vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của mình, việc xã hội bước vào thời kỳ quá độ lịch sử phát triển theo các định hướng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã được xác định như những điều kiện căn bản nhất cho sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ, bởi vì lần đầu tiên trong lịch sử một nền dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được ra đời.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ trong đó mọi quyền lực thực sự đều thuộc về nhân dân, dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội thống nhất với nhau, kết hợp hài hòa với nhau và điều đó làm cho nền dân chủ này trở thành nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết quả hoạt động đấu tranh cách mạng tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể ra đời, tồn tại và phát triển. Không thể có dân chủ xã hội chủ nghĩa mà lại thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bên cạnh đó quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta”. Với nghĩa đó có thể hiểu nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng luật pháp. Do đó, nền dân chủ luôn gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị.
Như vậy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc không ngừng mở rộng các phương thức thực hành dân chủ với mọi tầng lớp nhân dân lao động cũng đồng thời là việc kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, gây nguy hại cho tiến trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ và chuyên chính được đặt trong mối quan hệ biện chứng với nhau của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Nhà nước là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời là công cụ của chuyên chính giai cấp. Vì lợi ích của tất cả những người lao động trong xã hội (tức là tuyệt đại đa số nhân dân) mà nhà nước thực hiện vai trò là công cụ chuyên chính của mình, tiến hành trấn áp bằng bạo lực đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, gây nguy hại cho nền dân chủ của nhân dân. Mặc dù nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là chức năng cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất tốt đẹp và ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định và làm sáng tỏ cả về lý luận cũng như thực tiễn như thế, vậy mà các thế lực thù địch vì muốn phủ nhận, chống phá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã đưa ra các luận điệu sai trái, phản động như: Chế độ dân chủ tư sản như nó đang tồn tại ở phương Tây là chế độ dân chủ cao nhất, là thiên đường vĩnh hằng, là mục tiêu cao nhất mà loài người đang đi tới; rằng muốn có dân chủ thực sự thì phải thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng, “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”; rằng “đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng lên một quốc gia dân chủ”, và “đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của nhân dân”; rằng chủ nghĩa xã hội là chuyên chính, không có dân chủ... Đi cùng với những luận điệu trên, các thế lực thù địch đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi thể chế Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình tam quyền phân lập giống như của các nhà nước tư sản hiện đại, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ vai trò lãnh đạo đối với xã hội.
2. Phê phán các quan điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Theo nguyên nghĩa văn tự cổ Hy Lạp, dân chủ xuất phát từ thuật ngữ “demoskratos”, trong đó demos nghĩa là nhân dân và kratos nghĩa là cai trị. Theo cách diễn đạt này, thuật ngữ dân chủ được hiểu nhân dân cai trị. Về sau, dân chủ được các nhà tư tưởng chính trị quan niệm là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, một nền dân chủ đúng nghĩa thì phải bảo đảm các yếu tố cơ bản sau đây: Một là, thừa nhận nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Hai là, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng giữa các công dân, sự bình đẳng ấy được thể hiện bằng sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật. Ba là, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước và pháp luật, theo đó, dân chủ cũng được thực hiện dưới hình thức nhà nước với các tên thường gọi như là “chính thể dân chủ”, “chế độ dân chủ”, hay đơn giản hơn là “nền dân chủ”.
Dân chủ với những nội dung và hình thức biểu hiện của nó luôn thay đổi, biến đổi từ xã hội này sang xã hội khác trong suốt chiều dài lịch sử. Tức là dân chủ bị quy định bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của các quốc gia - dân tộc khác nhau, qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và dân chủ cũng luôn phát triển trên cơ sở phát triển của các điều kiện đó. Mỗi bước phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đều dẫn tới những bước phát triển kéo theo của dân chủ. Ngược lại, sự phát triển dân chủ bao giờ cũng tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Cuộc đấu tranh của nhân dân cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản trong lòng chế độ xã hội phong kiến đã thể hiện sự đoạn tuyệt khá triệt để của giai cấp tư sản đối với tư tưởng chuyên chế phong kiến. Trong nền dân chủ tư sản, nhiều yêu cầu về quyền công dân, quyền con người được ghi nhận về pháp lý, nhiều khát vọng về tự do của con người (tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hội họp...) được pháp luật thừa nhận.
Có thể nói, nền dân chủ tư sản đã có những cống hiến hết sức to lớn đối với lịch sử tiến hóa nhân loại, nhưng nó cũng mắc phải những hạn chế rất lớn. Những hạn chế đó xét đến cùng là do nền dân chủ đó được xây dựng trên nền tảng bất di, bất dịch là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc của chế độ người bóc lột người. Giai cấp tư sản thường ca ngợi và tuyên truyền cho nền dân chủ của họ là nền “dân chủ thuần tuý”, dân chủ tư sản không có tính chất chuyên chính, không mang tính chất giai cấp nên nó mở rộng vô bờ bến. Ngày nay, giai cấp tư sản càng có thiện tâm thiện ý “đề cao dân chủ, dân quyền”, tuy nhiên, V.I.Lênin đã chỉ ra một sự thật là: Quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất và chính quyền mà nằm trong tay bọn bóc lột, thì không thể nào nói đến tự do chân chính, bình đẳng chân chính cho những người bị bóc lột, nghĩa là cho đại đa số nhân dân được.
Nền dân chủ tư sản là chế độ bảo vệ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn thể nhân dân lao động. Bên cạnh đó nó đề cao quyền tự do cá nhân dẫn tới cá nhân cực đoan thực dụng - dẫn đến lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với lợi ích của xã hội. Điều này đã dẫn đến nhiều khuyết tật không thể tránh khỏi đã nảy sinh trong xã hội tư bản như: Sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng xã hội, tình trạng thất nghiệp, sự áp bức, bóc lột người lao động, ô nhiễm môi trường... Cho nên, về thực chất có thể thấy dân chủ tư sản vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và thực hiện sự thống trị đối với nhân dân lao động. V.I.Lênin cho rằng: Ngay trong giai đoạn phát triển nhất của nền cộng hòa dân chủ tư sản thì chế độ dân chủ ấy vẫn bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư sản, thực ra, nó chỉ là chế độ dân chủ đối với thiểu số mà thôi.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời trên cơ sở kế thừa các giá trị dân chủ trước nó, nhất là kế thừa các giá trị của nền dân chủ tư bản. Bởi vì, trong bức tranh chung về tiến trình phát triển của lịch sử, chế độ tư bản là nấc thang cận kề để từ đó bước lên nấc thang tiếp theo là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu dân chủ mà chủ nghĩa tư bản đạt được là thành quả tích lũy của loài người trong quá trình tiến hóa lâu dài, từ thấp đến cao, mà chỉ từ đó mới có thể tiến lên một nền dân chủ cao hơn. Tuy thế, dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với dân chủ tư sản. Khi so sánh nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã đi đến một tư tưởng khái quát: Dân chủ vô sản là thứ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản.
Nền dân chủ tư sản còn tuyệt đối hóa thuyết đa nguyên chính trị, coi đó là chế độ duy nhất đảm bảo dân chủ. Vì vậy, nhiều quan điểm cho rằng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc nhất nguyên chính trị, dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản sẽ không thể đảm bảo dân chủ thật sự.
Có thể thấy, vấn đề đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập xuất hiện và được bàn luận, đề cập nhiều từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang độc quyền thống trị xã hội. Lúc đầu, tư tưởng “đa nguyên luận” nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng độc quyền, mất dân chủ của giới tài phiệt và một số chính trị gia tư sản, bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư và lợi ích của một số nhóm nhỏ trong xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng “đa nguyên luận” không đạt được mục đích của mình là dân chủ hóa xã hội mà chỉ hình thành nên một số đảng phái trong xã hội nhằm phân chia, tranh giành quyền lực lẫn nhau.
Đa nguyên, đa đảng cũng có những yếu tố tích cực nhất định nhưng thực chất đa nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ. Đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm được dân chủ đích thực mà bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân... Vì vậy, một đảng lãnh đạo không đồng nhất với độc tài lãnh đạo, không đồng nhất với mất dân chủ. Không nhất thiết cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thực sự và không có đa nguyên, đa đảng thì không có dân chủ.
Ngoài ra, đa nguyên chính trị là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử tồn tại nhiều đảng phái có những lợi ích căn bản mâu thuẫn với nhau. Do vậy, nếu đa nguyên chính trị thì tất yếu dẫn tới tồn tại nhiều đảng phái đối lập, song không thể có điều ngược lại, nếu các đảng không có những lợi ích căn bản đối lập. Vì vậy, đa nguyên hay nhất nguyên là xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn lịch sử chứ không phải là khuôn mẫu cho mọi nền dân chủ.
Giai cấp tư sản cho rằng nền dân chủ của họ là nền “dân chủ thuần tuý”, dân chủ tư sản không có tính chất chuyên chính, nhà nước tư sản với cơ chế tam quyền phân lập mới có thể đảm bảo được dân chủ. Vì vậy, các thế lực thù địch đã đưa ra quan điểm phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cho rằng đó là bộ máy chuyên chính, với cơ chế quyền lực thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể nào đảm bảo dân chủ thực sự được. Đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đòi thực hiện cơ chế tam quyền phân lập trong bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa...
Về vấn đề này, khi xem xét dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ chung chung”. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Vì vậy, như đã phân tích ở trên, dân chủ tư sản không phải là nền dân chủ thuần túy, mà đó là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với đông đảo nhân dân lao động thông qua nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Trong khi coi chế độ dân chủ tư sản là bước lớn trong lịch sử, V.I.Lênin chỉ ra: “Phải đề phòng, không một lúc nào quên thực chất tư sản của chế độ “dân chủ” đó, tính chất tương đối và hạn chế của nó về mặt lịch sử, phải đề phòng không được nhiễm phải cái “lòng tin mê muội” vào “Nhà nước”, không được quên rằng ngay cả trong một chế độ cộng hòa dân chủ nhất, chứ không nói trong một chế độ quân chủ nữa, thì Nhà nước cùng thể là cái gì khác hơn là một bộ máy áp bức của giai cấp này đối với giai cấp khác”.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó. Đây cũng chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng trực tiếp nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả việc xây dựng xã hội mới; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của đảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện...
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Theo đó, nhân dân thông qua lập hiến mà trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước đó là xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải phân công và kiểm soát quyền lực đó. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân. Có thể nói, mục tiêu cuối cùng của quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước là phục vụ nhân dân, thực hiện “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chứ không phải để phân tách, phân rã quyền lực của nhân dân như các thiết chế tam quyền phân lập. Trên cơ sở đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới thực sự là bộ máy chuyên chế của nhân dân lao động nhằm đảm bảo thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời của một nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất yếu gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện dưới nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm. Có dân chủ hay không có dân chủ, dân chủ nhiều hay ít, dân chủ thực sự hay dân chủ hình thức... không tuỳ thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng. Không phải chỉ thực hiện “đa nguyên, đa đảng” mới có dân chủ. Xét đến cùng và quan trọng nhất có dân chủ hay không là thể hiện ở chỗ quyền lực và quyền lợi có thuộc về người dân hay không? Để thực sự phát huy quyền làm chủ của mỗi người dân, để mỗi công dân thể hiện đầy đủ nhất quyền lợi và trách nhiệm làm chủ của mình đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng một cách đồng bộ của nhiều thành tố, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, với chức năng quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Trước tình hình thực tế đang có những diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay thế lực thù địch muốn lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng vẫn chứng minh được tính đúng đắn, khoa học của nó. Điều này càng được thể hiện rõ qua thực tiễn thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua.
Thiếu tướng, GS. TS TRỊNH VĂN THANH
Hiệu trưởng Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Nguồn: http://hvctcand.edu.vn/