Home » Archives for 2016-04-03
Giới thiệu Tác giả và Blog
23:27 |
Tổ Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ môn Lý luận chính trị và khoa học xã hội nhân văn, Học viện An ninh nhân dân gồm 5 giảng viên, trong đó có 3 thạc sĩ, 2 đ/c đang học Nghiên cứu sinh, 2 đ/c đang học cao học tại Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bộ môn đảm nhiệm giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân cho học viên các lớp đào tạo, tại chức, văn bằng 2, liên thông, nâng bậc, dân sự, bồi dưỡng chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, lý luận chính trị trung cấp mở tại Học viện và Công an các địa phương.
Bộ môn chịu trách nhiệm giảng dạy khối lượng hàng nghìn giờ giảng mỗi năm. Về công tác nghiên cứu khoa học, Bộ môn đã chủ biên và tham gia nhiều đề tài khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở, biên soạn nhiều đầu sách, giáo trình, tài liệu học tập. Một số công trình tiêu biểu:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, Nxb.CTQG - Sự thật, 2015.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb.CTQG - Sự thật, 2015.
- 125 câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, Nxb.CTQG - Sự thật, 2015.
- Vận dụng một số nội dung khoa học chính trị trong Công tác công an, Nxb.CTQG - Sự thật, 2016.
Giáo viên Bộ môn cũng tham gia viết nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín hàng đầu như: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Khoa học và giáo dục an ninh, Tạp chí Khoa học Quân sự, Tạp chí Thông tin đối ngoại, Tạp chí Nội chính, Tạp chí Mặt trận...
Blog: tutuonghochiminhc500.blogspt.com được lập ra với mục đích tập hợp, công bố những công trình nghiên cứu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân; tuyên truyền, giáo dục việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Công an nhân dân; góp phần đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Blog cũng là diễn đàn cho các giáo viên, học viên và những bạn đọc quan tâm trao đổi chuyên môn, chia sẻ thông tin về tình hình chính trị, thời sự và vấn đề đổi mới giảng dạy các môn Lý luận chính trị trong Công an nhân dân.
Bộ môn trân trọng sự quan tâm, góp ý, cộng tác của bạn đọc trong và ngoài ngành Công an.
BAN BIÊN TẬP
Tại sao Hồ Chí Minh sang Liên Xô những năm 1923-1924?
03:28 |
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc Tế Cộng
Với cương vị là cán bộ của Quốc tế Cộng sản, có ba quãng thời gian tiêu biểu nhất Hồ Chí Minh* hoạt động ở Liên Xô, tức là hoạt động ngay tại trụ sở của Quốc tế Cộng sản: 1. Từ mùa hè năm 1923 đến cuối năm 1924; 2. Năm 1927; 3. Từ năm 1934 đến cuối năm 1938.
Thời gian có phần đắc chí nhất của Hồ Chí Minh trong những năm hoạt động ở Quốc tế Cộng sản không dài, từ mùa hè năm 1923 đến cuối năm 1924, tức là thời gian kể từ khi Người tạm biệt các đồng chí của mình ở Đảng Cộng sản Pháp để bí mật đến Liên Xô theo sự điều động, phân công của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản vào hoạt động trong bộ máy của Quốc tế Cộng sản, làm cán bộ của Ban Phương Đông rồi cuối năm 1924 đến hoạt động ở Trung Quốc cũng như một số nước châu Á khác.
Thật ra thì, dần dà, với thái độ nhiệt thành và có khi ứng xử, phát biểu hơi gay gắt của Hồ Chí Minh, cho nên đến thời gian cuối năm 1924, Hồ Chí Minh cũng biểu lộ mình là người “không hợp gu” với Quốc tế Cộng sản.Từ mùa hè năm 1923, Hồ Chí Minh đến Liên Xô, nhưng mãi đến tháng 12 năm đó, Người mới được chứng nhận tạm thời thuộc biên chế Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản và rồi mãi đến ngày 14-4 năm sau (năm 1924), Người mới được đồng chí Pêtơrốp, Trưởng Ban Phương Đông, ký nhận chính thức làm cán bộ của Ban.
Phải nói là ở Hồ Chí Minh có một tư chất đặc biệt nào đó tương thích với yêu cầu của Quốc tế Cộng sản cho nên mới được Quốc tế Cộng sản chú ý để điều động đến hoạt động ở môi trường rộng lớn hơn, với chức nhiệm của một người giúp cho Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa ở tầm quốc tế chứ không chỉ bó hẹp trong bản thân Đảng Cộng sản Pháp.
Mà quả thật như thế. Sau Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua cuối tháng 12 năm 1920, Hồ Chí Minh cùng với hơn 3208 đại biểu bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (1022 phiếu chống); và sau đó, lúc 2 giờ 30 phút sáng ngày 30-12-1920, cùng với các đại biểu đó tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản (Section Francaise de L’ Internationale Communiste, viết tắt là S.F.I.C.). Với hoạt động của Hồ Chí Minh tại Đại hội Tua, đến năm 1970, tại Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Pháp đã đánh giá rằng, Hồ Chí Minh chính là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản năm 1920 và là người tích cực giúp cho Đảng Cộng sản Pháp đi theo một đường lối rõ rệt chống chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh càng hoạt động tích cực hơn thúc đẩy mạnh mẽ, tạo lập một xu hướng đấu tranh về lý luận, tư tưởng, tổ chức cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Trước hết, Hồ Chí Minh dũng cảm và tích cực tố cáo chủ nghĩa thực dân. Bây giờ nhìn nhận lại vấn đề chủ nghĩa thực dân thì nhiều người dễ nhất trí đánh giá rằng, chủ nghĩa thực dân là vết nhơ lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng trong những năm đầu thế kỷ XX, nhận thức về vấn đề này không đơn giản. Thực ra, cho đến những năm 20 của thế kỷ XX ở Pháp, người ta vẫn cố tình hiểu không đúng vấn đề đó. Dưới con mắt của nhiều người châu Âu, nhất là ở Pháp trong cuối thế kỷ XIX và cả phần lớn thế kỷ XX, nhiều người vẫn coi việc Pháp đưa quân đội và công chức ra nước ngoài, đi xâm lược, chiếm đóng, biến những nước đó thành thuộc địa của mình như là để thực hiện “sứ mệnh khai hoá văn minh”.
Hồ Chí Minh là người đã tận dụng tất cả mọi diễn đàn có thể tận dụng được để lột trần bản chất của cái gọi là sự “khai hoá văn minh” đó. Sau khi đã trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp do giác ngộ một cách sâu sắc tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề giải phóng dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh càng tích cực tố cáo chủ nghĩa thực dân.
Sau năm 1920, Hồ Chí Minh có điều kiện thuận lợi nhất để làm việc này khi trực tiếp đóng góp ý kiến cho Đảng Cộng sản Pháp. Trên diễn đàn của báo L’ Humanité (Nhân đạo) ngày 25-5-1922, Hồ Chí Minh nêu lên những khó khăn chủ yếu của Đảng Cộng sản Pháp khi giải quyết vấn đề thuộc địa, trong đó có khó khăn do “tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa”, rằng, “tiếc thay, một số đông chiến sĩ vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì đến”[1].
Trong quãng thời gian đó, Hồ Chí Minh phát biểu nhiều lần tại các cuộc sinh hoạt của Đảng Cộng sản Pháp, tại các câu lạc bộ tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh cả những người dân thuộc địa, vì nhiều lý do, đang có mặt tại Pháp. Hồ Chí Minh vào các thư viện để đọc, sưu tầm, ghi chép nhiều tài liệu liên quan đến tội ác thực dân do chính những tên thực dân viết rồi tung ra các diễn đàn (cả viết bài báo, sách, cả diễn thuyết) với cách “gậy ông đập lưng ông”.
Hồ Chí Minh sử dụng các diễn đàn báo chí để đăng những bài báo sắc sảo mà Người lấy số liệu và các thông tin khác từ chính ngay ở Pháp để tố cáo chủ nghĩa thực dân. Tên tác giả Nguyễn Ái Quốc về loại bài này đã xuất hiện nhiều và đều đặn trên các báo La Revue Communiste, Inprecorr, L’ Humanité, Le Paria, La Vie Ouvrière, Le Journal du Peule, Le Libertaire, v.v.
Hồ Chí Minh viết báo với bút pháp đặc biệt, đưa ra những hình ảnh rất sắc. Chẳng hạn, Người viết: Nền công lý của thực dân Pháp được tượng trưng như một bà đầm, một tay cầm quả cân, một tay cầm thanh kiếm. Vì đường từ Pháp sang Đông Dương xa quá, xa đến nỗi bà đầm công lý sang đến được Đông Dương thì quả cân đã chảy lỏng ra thành thuốc phiện và rượu ty. Bà còn lại độc một cái kiếm và thế là bà tha hồ chém giết những người vô tội.
Mục tiêu cuối cùng và cao cả nhất trong cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là giải phóng con người trên toàn nhân loại. Hồ Chí Minh mô tả tỷ mỉ, cụ thể trong các bài báo của mình về tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp, và Người đau nỗi đau nhân thế. Hồ Chí Minh viết đoạn cuối của một bài báo sau khi đã tả lại tội ác của bọn thực dân: “Khi chép đến đoạn này, tôi run lên, mắt mờ lệ, nước mắt chảy xuống hoà với mực. Tôi không thể nào viết được nữa. Ôi! nước Pháp đau khổ! Đông Tây đau khổ! Nhân loại đau khổ!”[2].
Hồ Chí Minh đã phê bình một cách quyết liệt, gay gắt tính không triệt để và không kiên quyết của Đảng Cộng sản Pháp đối với vấn đề thuộc địa. Khi trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp và khi còn ở Pháp đến mùa hè năm 1923, Hồ Chí Minh đã kiến nghị, góp ý cho Trung ương Đảng Cộng sản Pháp ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa do Pháp chiếm đóng, đặc biệt là đối với Đông Dương. Sự phê bình này còn tiếp diễn cả thời kỳ Hồ Chí Minh đã hoạt động trong bộ máy của của Quốc tế Cộng sản.
Hồ Chí Minh đã phê bình Đảng Cộng sản Pháp không thực hiện một cách tích cực những nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản, trong đó thể hiện những quan điểm của V.I. Lênin nêu trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Hồ Chí Minh phê bình với những từ ngữ, lời lẽ mà nghe ra rất “đanh”: những nghị quyết của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề dân tộc và thuộc địa “chỉ được dùng để tô điểm mặt giấy”[3].
Theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, từ năm 1921, báo L’ Humanité của Đảng Cộng sản Pháp đã mở một chuyên mục Diễn đàn của các thuộc địa. Nhưng, chẳng bao lâu sau, chuyên mục này đã bị bỏ. Hồ Chí Minh nói rõ quan điểm của mình: “Thật là không thích đáng nếu cứ lắp đi lắp lại mãi một điều mà không làm gì cả. Và những người bị áp bức khốn khổ thấy chúng ta chỉ luôn luôn hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn không hành động gì thì bắt đầu tự hỏi rằng không biết thực ra chúng ta là những người đứng đắn hay là những kẻ lừa phỉnh”[4]. Tháng 7-1923, từ Mátxcơva, Hồ Chí Minh viết thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp đề nghị mở lại chuyên mục viết về thuộc địa trong báo L’Humanité và trong tất cả các báo chí của Đảng Cộng sản Pháp, đề cập vấn đề thuộc địa “trong hết thảy các đại hội, mít tinh hoặc hội nghị của Đảng”[5], “cử các nghị sĩ đi thăm các thuộc địa”[6], v.v. Những đề nghị trên đây của Hồ Chí Minh không được Đảng Cộng sản Pháp chấp nhận.
Có lẽ như vậy và vì như vậy, đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản trong nhiều chuyến công cán tại Pháp đã “phát hiện” ở người thanh niên thư sinh, gầy gò, mảnh khảnh Nguyễn Ái Quốc cái tư chất rất đặc biệt, và chính đó là mẫu hình cán bộ mà Quốc tế Cộng sản đang cần. Bà Clara Xétkin (Clara Zetkin), người nữ cộng sản nổi tiếng của Đức, Uỷ viên Ban Thường vụ Quốc tế Cộng sản, đã được Quốc tế Cộng sản cử sang Pháp dự Đại hội Tua, đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi ý kiến với Nguyễn Ái Quốc, sau đó bà là người luôn theo dõi, để ý đến Người. Chắc chắn rằng, việc mùa hè năm 1923 Hồ Chí Minh bí mật sang Liên Xô bằng tàu hỏa, rồi sau đó lên tàu Các Lípnếch của Liên Xô khởi hành từ cảng Hămbuốc của Đức đi Pêtơrôgát chính là do sự giới thiệu của bà Clara Xétkin trên cơ sở thỏa thuận với Đảng Cộng sản Pháp. Với tầm hoạt động và sự năng động của mình, ngay hồi còn ở Pháp, Hồ Chí Minh đã quen biết với rất nhiều người, từ các chính khách, các nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, những văn nghệ sĩ có tên tuổi, đến những người ở các nước thuộc địa, phụ thuộc đang sống và hoạt động tại đấy.
Đến hoạt động tại trụ sở Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy năng lực, sở trường của mình trong vấn đề chống chủ nghĩa thực dân. Ngay tại Phiên họp lần thứ 8 của Đại hội V Quốc tế Cộng sản, sáng 23-6-1924, Hồ Chí Minh đã phát biểu có lý về vai trò quan trọng của cách mạng ở nước thuộc địa trong quan hệ với cách mạng ở “chính quốc” rằng: “Tôi phát biểu ở đây để lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: Cách mạng, ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa, còn có cả nguy cơ của các thuộc địa. Song tôi thấy rằng, hình như các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa…Vì vậy, muốn đánh bại các nước này, trước hết chúng ta phải tước thuộc địa của nó đi”[7].
Tại Phiên họp đó, Hồ Chí Minh còn nói: “Tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, sẽ gợi ra những vấn đề và nếu cần tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa…Các thuộc địa trở thành nền tảng của các lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa…Tại sao các đồng chí lại xem thường thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí?…Bàn về khả năng và các biện pháp thực hiện cách mạng…các đồng chí Anh và Pháp cũng như các đồng chí ở các đảng khác hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kỳ quan trọng có tính chiến lược này. Chính vì thế, tôi hết sức kêu gọi các đồng chí: Hãy chú ý”[8].
Tại một diễn đàn tại Phiên họp lần thứ 22 Đại hội đó, ngày 1-7-1924, với tư cách là một đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp, và nhân danh một người ở dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh phát biểu để “bổ sung những ý kiến phê bình của đồng chí Manuinxki về chính sách của chúng ta trong vấn đề thuộc địa”. Hồ Chí Minh phê bình cả Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Anh và đảng cộng sản một số nước chưa quan tâm đến cách mạng ở các thuộc địa: “Sẽ không phải là quá đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng Pháp và Đảng Anh chúng ta chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề cập đến quần chúng các thuộc địa, thì toàn bộ chương trình rộng lớn của hai đảng đó vẫn không có hiệu quả gì. Chương trình ấy sẽ không có hiệu quả gì vì nó trái với chủ nghĩa Lênin”[9].
Hồ Chí Minh phát biểu tiếp: “Còn các đảng cộng sản của chúng ta như Đảng Cộng sản Anh, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản các nước khác mà giai cấp tư sản ở đấy chiếm giữ thuộc địa, thì đã làm những gì? Các đảng này, từ khi chấp nhận bản Luận cương của Lênin, đã làm được những gì để giáo dục cho giai cấp công nhân nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính, tinh thần gần gũi với quần chúng lao động các nước thuộc địa? Tất cả những việc mà các đảng của chúng ta đã làm về mặt này, thật hầu như chưa có gì cả. Còn về tôi, là một người sinh trưởng ở một nước hiện nay là thuộc địa của Pháp và là một đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng Đảng Cộng sản Pháp chúng tôi làm rất ít cho các nước thuộc địa”[10]. Hồ Chí Minh phát biểu một cách gay gắt, với khẩu khí thật mạnh và đưa ra những đề nghị rất cụ thể: “Vậy phải hành động thực tiễn như thế nào? Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng như từ trước vẫn làm thì chưa đủ. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể. Tôi đề nghị mấy điểm dưới đây:
1. Mở trên báo L’Humanité một mục để đăng đều đặn hằng tuần ít nhất hai cột các bài về vấn đề thuộc địa.
2. Tăng cường tuyên truyền và tuyển lựa đảng viên của Đảng trong những người bản xứ ở những nước thuộc địa đã có phân bộ cộng sản.
3. Gửi những người bản xứ vào Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Đông ở Matxcơva.
4. Thoả thuận với Tổng Liên đoàn lao động thống nhất để tổ chức những người lao động của các thuộc địa làm việc ở Pháp.
5. Đặt nhiệm vụ cho các đảng viên của Đảng phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề thuộc địa”[11].
Trong một bức thư đề ngày 11-4-1924 gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh nêu nhận xét của mình: “Những thuộc địa của Pháp nói chung và xứ Đông Dương nói riêng, rất ít được biết tới trong giới vô sản…Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp đều hiểu biết rất ít về những gì xảy ra tại thuộc địa đó”[12].
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của giai cấp vô sản ở “chính quốc”, đặc biệt trong đo là giai cấp công nhân Pháp, phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở thuộc địa, sự kết hợp đó tạo thành một mặt trận thống nhất của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đi tới tận cùng của tư duy về chủ nghĩa thực dân và những biện pháp cách mạng trong thực tế. Nhưng tiếc thay, éo le thay, cuộc sống vốn không đơn giản. Hồ Chí Minh lại bị sa lầy bởi những quan điểm cả hữu khuynh và cả tả khuynh, phần nhiều là tả khuynh, của Quốc tế Cộng sản trên một số vấn đề chủ yếu nhất của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Mãi đến tháng 9-1924, Quốc tế Cộng sản vẫn cứ trù trừ khi cử Hồ Chí Minh đến hoạt động ở Trung Quốc và trở về Đông Dương. Thậm chí, khi cử rồi thì định không cấp tiền cho Hồ Chí Minh hoạt động, không cử Người với tư cách là cán bộ của Quốc tế Cộng sản mà chỉ với tư cách cá nhân. Sau đó, do can thiệp của đại diện Đảng Cộng sản Pháp, vấn đề trên đây mới được giải quyết ổn thỏa.
* Trong cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh mang rất nhiều tên khác nhau. Để tiện theo dõi, trong bài này, xin được quy ước dùng một tên thống nhất:Hồ Chí Minh.
Nguồn: thehehochiminh.net
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 62.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 52.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 194.
[4] Như trên, tr. 195.
[5] Như trên, tr. 197.
[6] Như trên.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 273.
[8] Như trên, tr. 273-275.
[9] Như trên, tr. 277.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 278.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 281.
[12] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, T. 1, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 214-215.
Mặt trái của quyền lực trong điều kiện Đảng cầm quyền
22:31 |
Hình minh họa
Lịch sử thế giới đã chứng minh mỗi quốc gia chỉ có thể thành công khi việc trao quyền lực được thực hiện một cách đúng đắn, bảo đảm mọi quyền lực thực sự là của nhân dân và có cơ chế kiểm soát để người được trao quyền không bị thoái hóa, biến chất. Trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng,Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương đăng trên Tạp chí Cộng sản. Tựa và tít xen do Tutuonhhochiminhc500 đặt.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một quốc gia muốn thành công cần phải có phương thức lãnh đạo trao quyền cho những người có đạo đức, có tài năng và cần tập trung kiểm soát quyền lực, bổ sung các cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi trong đảng và trong xã hội.
Trọng chức tước, không trọng nhân cách
Trong buổi bình minh của nhân loại, khi con người còn hoang sơ, cuộc sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, người ta đã nghĩ và tin rằng, quyền lực thuộc về tự nhiên, do các thần linh nắm giữ. Sau đó, nhờ trình độ nhận thức tăng lên, con người đã dần dần nhận ra và phân biệt được sức mạnh của tự nhiên và sức mạnh của mình trong chế ngự tự nhiên và quản lý xã hội. Từ đó quyền lực bắt đầu xuất hiện.
Quyền lực, khởi nguyên là của nhân dân, của cộng đồng mà không phải cá nhân ai bỗng nhiên có được. Khi mọi người tự nguyện đồng lòng tôn vinh ai đó là thủ lĩnh, là người phụ trách để thay mặt họ xử lý công việc chung, thì đồng thời cũng là trao quyền lực cho người ấy. Bắt đầu từ đó, người thủ lĩnh, người phụ trách có quyền lực. Về bản chất thì quyền lực không phải của họ mà họ được nhân dân trao quyền, ủy quyền để sử dụng cho mục đích chung.
Khi quyền lực được trao cho người có nhân cách tốt thì nó được sử dụng đúng mục đích, bảo vệ và đem lại lợi ích cho cộng đồng. Người xưa có câu: “Đức trọng, quyền cao”. Câu ấy có thể hiểu là dựa trên cơ sở của đạo đức, nhân cách mà trao quyền lực. Người có đạo đức là mười thì có thể trao quyền lực đến bảy, tám, tức là trao quyền lực ít hơn, càng không trao vượt quá. Người có đạo đức ít, thấp mà trao quyền lực nhiều, cao thì vô cùng nguy hiểm, giống như “gửi trứng cho ác”, sai lầm, tai họa là nhất định không tránh khỏi. Theo đó, người có chức quyền càng lớn thì đạo đức, nhân cách phải càng lớn hơn. Không biết từ bao giờ, câu “Đức trọng, quyền cao” lại bị người ta nói chệch sang là “Chức trọng, quyền cao”, tức là trọng chức tước chứ không phải trọng nhân cách.
Khi quyền lực trao cho người không đủ nhân cách, thì nó trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích cá nhân, “lợi ích phe nhóm”, thậm chí là công cụ để làm việc ác. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam đã có nhiều trường hợp nhân dân trao quyền và bị mất quyền, trở thành đối tượng cho quyền lực cai trị. Như vậy, quyền lực có thể đem lại công bằng, hạnh phúc và cũng có thể đem lại tai họa, đau khổ cho con người. Điều đó phụ thuộc vào việc quyền lực được trao vào tay ai.
Quyền lực gây nghiện, là “ma quỷ” xui khiến
Trong thực tế đời sống xã hội có nhiều trường hợp quyền lực của một cộng đồng đã bị người khác (hoặc một nhóm người) dùng thủ đoạn tước đoạt, tranh cướp mất. Quyền lực vốn là của nhân dân, nhưng trong chế độ chiếm hữu nô lệ, các chủ nô đã chiếm giữ và sử dụng nó để cai trị xã hội, biến nhân dân (vốn là chủ nhân của quyền lực) thành những người bị mất quyền, phải làm nô lệ. Trong chế độ phong kiến, quyền lực của nhân dân rơi vào tay vua và tập đoàn phong kiến, còn nhân dân nói chung không có quyền, ngoài một số quyền ít ỏi nào đó do nhà vua ban cho; ngay cả đến quyền sống cũng không có, “ý vua là ý trời”, vua đại diện cho pháp luật, muốn giết ai thì giết, thậm chí giết luôn cả dòng họ, cả mấy đời (tru di tam tộc, tru di cửu tộc) của người đó.
Thời kỳ đầu của chế độ tư bản chủ nghĩa, quyền lực do giai cấp tư sản, nhất là giới tài phiệt chi phối, chiếm giữ và sử dụng. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tiến bộ rất nhiều theo hướng dân chủ, tuy vậy, nhìn chung, giới tài phiệt ở các nước vẫn còn chi phối đáng kể quyền lực. Dân chủ là một vấn đề khách quan, tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, nhất là trình độ dân trí, quan trí và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Quyền lực luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng quyền lực nếu như họ không đủ nhân cách. Với những người như vậy, nếu quyền lực mà họ nắm giữ càng lớn thì nguy cơ tha hóa của họ càng nhiều. Một người khi giữ chức vụ thấp hơn thì nguy cơ tha hóa ít hơn. Mặc dù vậy, nói chung phần lớn quan chức đều tham vọng có nhiều quyền lực. Không có gì hấp dẫn, cám dỗ bằng quyền lực. Nó là “ma túy” gây nghiện, là “ma quỷ” xui khiến. Khi có quyền lực là có thể có gần như tất cả, nếu muốn. Vì vậy, quyền lực hấp dẫn bằng các thứ hấp dẫn khác cộng lại. Người ta đam mê nó, suốt ngày nghĩ về nó, dùng mọi thủ đoạn sống chết để giành và giữ lấy nó, dù phải mất nhân cách, dù phải làm việc ác.
Có quyền lực rồi thì muốn có quyền lực lớn hơn, lớn rồi vẫn chưa đủ lại muốn lớn hơn nữa. Cứ thế, gần như không có điểm dừng, thậm chí không cần biết có nhiều quyền lực để làm gì. Bản thân việc ấy đã là biểu hiện của sự tha hóa. Quyền lực làm tha hóa con người một cách nhanh nhất. Không ít người chỉ cần sau một cuộc bỏ phiếu hoặc sau một quyết định phong chức, họ có thể bỗng nhiên khác hẳn, họ bắt tay theo kiểu khác, chào hỏi kiểu khác, dáng đi bệ vệ hơn, nói năng ra oai hơn...
Quyền lực không chỉ làm tha hóa mấy con người cụ thể, mặc dù đúng là bắt đầu từ đó, mà còn làm tha hóa cả một chế độ, một vương triều. Nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam, hầu hết, lúc đầu được nhân dân ủng hộ lên nắm quyền, làm được nhiều việc lớn cho đất nước, dân tộc nhưng sau đó thì bị tha hóa bởi quyền lực, từ tha hóa ở một số người đến một bộ phận rồi thành việc phổ biến của một vương triều, rồi sụp đổ, vương triều khác lên thay, sau một thời gian lịch sử lặp lại y như vậy.
Nhà Ngô, nhà Đinh, Tiền Lê có công lớn nhưng mỗi triều đại chỉ tồn tại trong khoảng 15 - 30 năm. Nhà Lý, nhà Trần nhiều lần đánh thắng quân Tống và quân Nguyên nhờ biết “lấy dân làm gốc” mà chiến thắng, cầm quyền được lâu nhất, trên dưới 200 năm mỗi triều đại, dù vậy nhưng cuối cùng cũng do bị tha hóa mà kết thúc. Nhà Hồ tồn tại quá ngắn, mặc dù có một số tư tưởng và chủ trương cải cách nhưng ngay từ khi mới lên đã không được dân chúng đồng tình, mâu thuẫn quyền lực trong giới quý tộc và mất nước vào tay ngoại xâm. Nhà Hậu Lê (Lê sơ) mặc dù lúc đầu được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ, đứng lên làm khởi nghĩa Lam Sơn, thắng giặc Minh hung bạo, nhưng khi lên cầm quyền rồi lại tha hóa, sát hại các trung thần vì họ can ngăn những việc làm sai trái và sợ họ chi phối quyền lực. Nguyễn Trãi cũng bị mưu hại trong giai đoạn này. Nhờ có minh quân mà nhà Hậu Lê gượng lại được một thời gian gần trăm năm, nhưng cuối cùng cũng tha hóa. Nhà Mạc cũng vậy, chỉ tồn tại khoảng 65 năm.
Tiếp theo là thời kỳ vừa có vua, vừa có chúa, chúa giành nắm hết quyền lực, nhiều khi vua chỉ là hình thức cho có vì, các chúa cũng tranh giành nhau quyền lực, đến mức phải cát cứ vùng này, vùng kia, chia cắt đất nước ra để mỗi bên cai trị một vùng. Triều Tây Sơn với chiến công oanh liệt, lẫy lừng là thế, vậy mà sau khi Quang Trung mất thì tha hóa, tham nhũng và sụp đổ, tồn tại chỉ có 24 năm. Phần lớn các triều đại ấy đã thoái hóa ngay cuối đời vua thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, chứ không lâu, ngoại trừ một ít trường hợp. Lâu nay lịch sử nước ta đã ghi lại khá rõ các chiến công lừng lẫy của cha ông, nhưng lịch sử chưa viết kỹ về thời kỳ suy thoái, sự tha hóa quyền lực và nhất là nguyên nhân của nó. Đây rất có thể là một khiếm khuyết trong viết sử. Chính vì vậy mà không rút được kinh nghiệm đầy đủ để phòng ngừa, nên tha hóa quyền lực cứ lặp đi lặp lại.
Liên Xô trước đây cũng vậy, thời kỳ đầu thực hiện khá tốt tư tưởng nhà nước của dân, quyền lực về tay các xô-viết là cơ quan thật sự đại diện cho đại đa số nhân dân, làm việc vì nhân dân nên đã lập nên nhiều công tích lớn lao, vĩ đại, đánh thắng 14 nước đế quốc đến bao vây, bảo vệ được chính quyền nhân dân non trẻ, chiến thắng trong Đại chiến thế giới thứ 2, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát-xít, thực hiện thành công công nghiệp hóa ở một đất nước rộng lớn nhất thế giới trong thời gian ngắn, đưa một nước chủ yếu còn nông nghiệp, thủ công lên thành một nước công nghiệp hàng đầu thế giới, một cường quốc, dẫn đầu nhiều lĩnh vực; vậy mà sau đó không lâu giới lãnh đạo đất nước bị tha hóa về quyền lực, về đạo đức, bảo thủ và giáo điều, không chịu đổi mới, ai nói khác thì bị quy chụp là “xét lại”, là “muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”... và cuối cùng thì Liên bang Xô-viết bị sụp đổ đến mức khó hiểu nổi. Trước đây có nhiều lần giải thích rằng, Liên Xô đổ là do các thế lực thù địch phá bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Địch thì lúc nào chẳng phá, do nó phá nên mới gọi là địch, mà phá sao bằng trước đó, khi 14 nước đế quốc đến bao vây Nhà nước Xô-viết còn non trẻ, khi trong Đại chiến thế giới thứ 2 quân đội phát-xít tập trung toàn lực tấn công Liên Xô làm chết hàng chục triệu người. Liên Xô sụp đổ chính là “tự đổ”, do suy thoái, tha hóa mà đổ. Liên Xô đã tự đánh gục chính mình.
Quyền lực gắn với chữ Tham
Sự tha hóa về quyền lực có thể dẫn đến cha con, anh em, chồng vợ giết nhau, người ta giết cả vua, gây ra những cuộc chiến tranh mất bao nhiêu sinh mạng để tranh giành quyền lực, thậm chí người ta bán rẻ Tổ quốc và đem dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang để đổi lấy ngai vàng.
Tất nhiên trong xã hội thời nào cũng có nhiều người tốt, nhiều nhân cách đáng trọng. Đối với họ, quyền lực được giao là để phụng sự nhân dân, dùng để bảo vệ dân, đất nước và bảo vệ lẽ phải, đạo nghĩa, chống gian trừ tà. Họ luôn sẵn sàng trao trả quyền lực trở lại cho nhân dân khi đủ điều kiện. Đã có những ông quan thanh liêm treo ấn từ quan vì xét thấy mình không còn đủ sức gánh vác chuyện sơn hà hoặc là không muốn có lỗi với dân vì không ngăn cản nổi những điều ngang trái. Đã có những ông vua từ bỏ ngai vàng, trao quyền lực cho lớp người trẻ, kể cả vào chùa để thúc đẩy các công việc thánh thiện cho đời và cho muôn dân.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại được một đất nước đã mất, người có công lớn nhất lãnh đạo cuộc cánh mạng là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng lúc đầu Người kiên quyết từ chối làm Chủ tịch nước, không muốn công danh quyền lực. Chỉ khi tập thể phân tích đây là trách nhiệm trước quốc dân đồng bào, là gánh vác trọng trách và khó khăn, Người mới nhận lãnh trách nhiệm, phát biểu trước đồng bào sẽ làm hết sức mình để phụng sự nhân dân và mong nhanh có người thay thế để được về vui sống với điền viên, giản dị và thanh bạch. Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng cũng là một con người như vậy.
Khi đang ở ẩn trong vườn mít ở miền tây tỉnh Quảng Nam, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Phó Chủ tịch nước, rồi làm Quyền Chủ tịch nước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, ông không cần mong vinh hoa phú quý, chỉ đem toàn bộ tâm lực phục vụ nhân dân. Đó là những con người có nhân cách lớn, quyền lực không đe dọa được và cũng không cám dỗ được. Thời gian vừa qua, ở nơi này nơi khác, thỉnh thoảng có những đồng chí bí thư thành ủy, thường vụ tỉnh ủy đã tự nguyện chủ động từ chức sớm, khi chưa hết tuổi và chưa hết nhiệm kỳ, để những vị trí lãnh đạo cho các đồng chí trẻ hơn... Tất cả những con người ấy đều đáng trân trọng, không được “vơ đũa cả nắm” đối với những người có quyền lực được trao.
Ngược lại, trong xã hội, ở chốn quan trường, không ít người đầy tham vọng quyền lực. Khi quyền lực được gắn với chữ “tham”, lòng tham, thì đó chính là động cơ, nguyên nhân và biểu hiện của tha hóa quyền lực. Không thể hy vọng và tin tưởng gì ở họ, ngược lại phải hết sức cảnh giác, đề phòng bị lừa phỉnh, phủ dụ, mị dân, đừng “gửi trứng cho ác”, đừng đem sự nghiệp của dân, của nước trao vào tay họ.
Mặt khác, quyền lực không thể trao cho ai mà không cần kiểm soát. Nó là con dao hai lưỡi. Nó có thể biến người sử dụng nó từ một người chưa xấu trở thành người xấu, biến người sử dụng nó thành nô lệ cho nó. Mấy chục năm sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng. Nội dung các văn bản ấy nhìn chung đều đúng, không sai, việc tổ chức thực hiện cũng tích cực, thậm chí có lúc vất vả nữa, nhưng tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “mua quan bán chức”,... gọi chung là thoái hóa, không dừng lại mà còn tăng lên, lan rộng hơn, gây nhức nhối hơn, làm cho lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục giảm sút đến mức báo động. Vì sao vậy? Chắc chắn không phải việc chống các tiêu cực ấy là ta chủ trương giả vờ, không chống thật; mà là chống chưa được, chưa hiệu quả. Vậy còn thiếu cái gì? Có hai vấn đề còn thiếu, coi như chưa làm, mà nếu không làm thì không khắc phục được tình trạng trên và có thể nó sẽ còn tiếp tục trở nên xấu hơn, không tránh được. Đó là tập trung kiểm soát quyền lực và bổ sung mạnh các cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội.
Quyền lực, như đã nói, luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng nó mà không đủ nhân cách. Nó như con dao hai lưỡi, con ngựa bất kham, luôn lồng lên quật ngã những người cưỡi nó, nếu họ không đủ nhân cách, bản lĩnh, năng lực cầm cương. Nhất thiết phải kiểm soát quyền lực, không thể chủ quan, lơ là, không thể đùa với lưỡi dao nhọn. Đã có rất nhiều bài học thực tiễn, thực tế đã chứng minh điều đó; phải bàn kỹ và có quyết tâm chính trị để thực hiện. Đảng ta phải tập trung cao, tích cực lãnh đạo công việc này. Đây là công việc quan trọng vào bậc nhất, trong đó có các việc, như cơ cấu và phân bổ lại chức năng, quyền hạn của các cơ quan nhà nước theo hướng kiểm soát và điều chỉnh lẫn nhau (để Nhà nước thật sự là một cơ thể thống nhất và tự kiểm soát, tự điều chỉnh được mình, có sức đề kháng cao với căn bệnh thoái hóa quyền lực, có khả năng sửa sai nhanh nhất...); đổi mới căn bản nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, bảo đảm quyền lực là của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước. Ủy quyền mà không mất quyền. Ủy quyền và kiểm soát được quyền lực, không để lộng quyền.
Một dân tộc muốn tiến lên cần phải có bộ tham mưu chiến lược. Có sự lãnh đạo của một đảng chân chính và trí tuệ là yêu cầu khách quan. Nhưng khi trở thành đảng cầm quyền thì hoạt động của đảng không tránh khỏi có nhiều việc liên quan với quyền lực. Đảng ta luôn ý thức về sự lãnh đạo của mình chủ yếu phải bằng giá trị (văn hóa) chứ không phải bằng quyền lực, và Đảng phải nghĩ ra các cơ chế để đảng viên, nhân dân và pháp luật kiểm soát mình, kể cả nhân cách và việc sử dụng quyền lực, để Đảng được rèn luyện liên tục, thường xuyên; từ đó mà không bị thoái hóa và ngày càng trưởng thành hơn. Thực hiện điều ấy bằng cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế thực thi dân chủ. Để có thể thành công, bản thân Đảng phải gương mẫu, từng cấp ủy và từng cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, vượt qua chính mình. Đảng phải là “con” của nhân dân, là “con nòi” của dân tộc, là đứa con trung hiếu và trưởng thành, để “lòng dân yêu Đảng như là yêu con” như cách nói của Bác Hồ và nhà thơ Tố Hữu. Làm được như vậy, Đảng sẽ được nhân dân luôn tin yêu, nhờ đó mà giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình để làm tròn sứ mệnh phụng sự nhân dân và Tổ quốc.
Theo Tạp chí Cộng sản
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Bài giảng video
17:41 |
Giáo sư Hoàng Chí Bảo là Ủy viên thư ký thường trực, Hội đồng Lý luận Trung ương, báo cáo viên có uy tín hàng đầu trong giảng dạy về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trân trọng giới thiệu với các đồng chí bài giảng của giáo sư tại Khánh Hòa về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
------------
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng
01:08 |
Là người sáng lập và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo công tác xây
dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hướng tới làm
cho sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng không những được
tăng cường mà còn có chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.
Người chú trọng hai vấn đề chính yếu đối với Đảng: rèn luyện tư cách của Đảng
chân chính cách mạng và cách lãnh đạo của Đảng.
Về tư cách của Đảng chân chính cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ 12 điều:
"1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành
phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực
và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó
có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng
luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần,
kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân
chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng
không học được dân chúng.
Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân
chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng
những cách thức thi hành cho hoạt bát.
Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức
tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân
chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải
nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và
đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ
thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần từ hủ hoá ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.
Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là
do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã
thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra
lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.
Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào".
Những điều chỉ dẫn trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn nguyên giá trị
đối với nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng, từng tổ chức Đảng, từng
cấp uỷ và từng đảng viên luôn luôn đối chiếu, soi mình vào những lời dạy đó của
Người sẽ làm cho Đảng không ngừng được nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu, nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo.
Có thể coi 12 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra như những chuẩn mực về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Đương nhiên, những điều đó cần được cụ thể hoá phù hợp với điều
kiện lịch sử và nhiệm vụ chính trị hiện nay của công cuộc đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng Cách lãnh đạo của Đảng. ở nhiều tác phẩm,
nhiều bài viết, bài nói chuyện, Người đã đề cập sâu sắc và tỉ mỉ, cụ thể vấn đề
này.
Trước hết Người nói về lãnh đạo và kiểm soát. Chẳng những phải lãnh đạo quần
chúng mà lại phải học hỏi quần chúng. "Nghĩa là: người lãnh đạo không nên
kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ
cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo
còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm
của mình". Người nhấn mạnh đến việc lắng nghe ý kiến của đảng viên, của
nhân dân, của những người "không quan trọng".
Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Theo Người, cố nhiên,
không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Lãnh đạo
đúng nghĩa là:
"1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất
định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người
chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì
không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần
chúng giúp mới được".
Người lãnh đạo phải thấu hiểu, phải nhìn từ trên xuống và cũng lắng nghe ý kiến
từ dưới lên. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đòi hỏi: Phải ra quyết định đúng đắn
trên cơ sở nắm vững lý luận, quan điểm, trên cơ sở phân tích tình hình thực
tiễn và lắng nghe ý kiến của nhân dân và với cách nhìn toàn diện, bao quát và
cụ thể. Phải tổ chức thực hiện cho đúng đắn, tổ chức quần chúng nhân dân thực
hiện đường lối chủ trương của Đảng, những quyết định cụ thể của từng tổ chức
Đảng và cấp uỷ Đảng. Phải kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quyết định.
Hồ Chí Minh cũng bàn kỹ việc lãnh đạo thế nào? "Bất kỳ công việc gì, cũng
phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một là liên hợp chính sách chung với sự
chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng".
Thế nào là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng? Người cho rằng: bất kỳ
việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung, không thể động viên khắp
quần chúng. "Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp cả một lúc,
mà không trực tiếp nhằm một nơi nào đó, thực hành cho kỳ được, rồi lấy kinh
nghiệm nơi đó mà chỉ đạo những nơi khác, thì không thể biết chính sách của mình
đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính sách đó đầy đủ, thiết
thực". Việc lãnh đạo, chỉ đạo chung, bao quát phải đi liền với thực hiện
có trọng điểm, từ kinh nghiệm của điểm mà phát triển chỉ đạo ra diện rộng. Đó
là cách lãnh đạo chắc chắn và có hiệu quả. Điều đó cũng đòi hỏi người lãnh đạo
cùng với nắm những vấn đề chung, chỉ đạo chung phải chú ý những vấn đề cụ thể,
thiết thực. Hồ Chí Minh nhấn mạnh "Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không
học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận
thiết thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo
chung cho tất cả các bộ phân" . Đó là một cách vừa lãnh đạo vừa học tập.
Thế nào là liên hợp lãnh đạo với quần chúng? Câu hỏi đó được Hồ Chí Minh đặt ra
nhiều lần và được lý giải cặn kẽ đồng thời cũng khái quát thành một nguyên tắc
trong sự lãnh đạo của Đảng. "Bắt kỳ việc gì (thí dụ việc chỉnh đốn Đảng),
người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo.
Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hợp với quần chúng, công việc mới
thành". Hồ Chí Minh chỉ rõ, nếu chỉ có sự hăng hái của nhóm trung kiên, mà
không liên hợp với sự hăng hái của quần chúng, nhóm trung kiên sẽ phải chạy
suốt ngày mà không kết quả mấy. Nếu chỉ có sự hăng hái của quần chúng mà không
có sự hăng hái của nhóm trung kiên để tổ chức và dìu dắt, thì sự hăng hái của
quần chúng sẽ không bền và không thể tiến tới.
Phân tích lực lượng quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bất kỳ nơi nào quần chúng
cũng có ba hạng người: hăng hái, vừa vừa và kém. Những người vừa vừa là nhiều
hơn hết. Những người hăng hái và kém thì ít hơn. "Vì vậy, người lãnh đạo
phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà
nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém tiến nên". Người cũng cho rằng, nhóm
trung kiên đó do công tác và tranh đấu trong quần chúng mà nảy nở ra chứ không
phải tự ngoài quần chúng, xa cách quần chúng mà có được.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt
phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng "Nghĩa là gom góp mọi
ý kiến rời rạc lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt
nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần
chúng, và làm cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ
vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem
xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng,
phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích
làm cho quần chúng giữ vững và thực hành". Cứ như thế, theo Hồ Chí Minh,
lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. "Đó là cách
lãnh đạo cực kỳ tốt". Người cũng cho rằng, vì không biết gom góp ý kiến
của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh
đạo thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế. "Vì vậy, trong công
việc chỉnh đốn Đảng, cũng như trong mọi công việc khác, quyết phải thực hành
cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách chung với chỉ
đạo riêng". Chính điều đó "phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu,
chủ quan, bàn giấy".
Hồ Chí Minh cũng nêu rõ người lãnh đạo học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi
quần chúng. Người cho rằng, dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh
hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân
chúng. Mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của Đảng ta,
phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng
của dân chúng. Người nhấn mạnh:
"Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được
Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên".
Theo Hồ Chí Minh, làm việc với dân chúng có hai cách:
"1. Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. ép dân chúng
làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân
chúng, bắt dân chúng theo.
Có nhiều cán bộ làm theo cách đó. Họ còn tự đắc rằng: làm như thế, họ vẫn
"làm tròn nhiệm vụ", làm được mau, lại không rầy rà.
Họ quên rằng: Đảng ta và Chính phủ ta làm việc là làm cho dân chúng. Việc gì,
cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo cách quan liêu thì dân oán. Dân oán,
dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại.
2. Làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng
bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng
vui lòng ra sức làm.
Như thế hơi phiền một chút, phiền cho những người biếng học hỏi và giải thích.
Nhưng việc gì cũng nhất định thành công".
Hồ Chí Minh phân tích một cách cặn kẽ để chỉ ra sự nhận thức không đúng trong
cách lãnh đạo, làm việc của cán bộ, đảng viên. "Có người nói rằng: mọi
việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng
một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách
trước nhân dân. Mà phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và
Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc và cũng phụ trách trước
nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ
trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính
phủ".
Lắng nghe ý kiến, bàn bạc với dân chúng, học hỏi dân chúng nhưng không theo
đuôi dân chúng. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Cố nhiên, không phải dân chúng nói
gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ phải dùng cách so sánh của dân chúng
mà tự mình so sánh... Chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa
chọn lại, để nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng".
Nhấn mạnh quyết tâm "bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh
lệnh", Hồ Chí Minh đề ra những nguyên tắc trong thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng:
"1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng.
2. Tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải
quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng.
Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào
ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.
3. Chớ khư khư giữ theo "sáo cũ". Luôn luôn phải theo tình hình thiết
thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng mà tổ
chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
4. Chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý
kiến của quần chúng, hoá nó thành đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem
cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ
đạo nhân dân.
5. "Phải đưa chính trị vào giữa dân gian". Trước kia, việc gì cũng từ
"trên dội xuống". Từ nay việc gì cũng phải từ "dưới nhoi
lên".
Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội cũng là từ lực lượng của nhân dân, vì lợi ích, sự sung sướng và
hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp của Đảng và nhân dân là thống nhất. Đảng cũng
không có lợi ích nào khác là lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân. Vì vậy,
xử lý đúng đắn nhất mối quan hệ giữa Đảng và dân vừa là nội dung, phương pháp
lãnh đạo của Đảng vừa và sự bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của
Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ và kinh nghiệm bản thân đã đưa ra những
chỉ dẫn, những ý kiến rất giản dị nhưng vô cùng sâu sắc, toàn diện về nội dung
lãnh đạo, cách lãnh đạo của Đảng. Những chỉ dẫn đó có ý nghĩa thiết thực đối
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của trong thời kỳ đổi mới
hiện nay. Những điều chỉ dẫn của Bác không những có giá trị đối với sự lãnh đạo
của Trung ương mà còn rất cụ thể, thiết thực đối với từng tổ chức Đảng, từng
cấp uỷ Đảng và đối với từng cán bộ, đảng viên.
Thước đo trình độ, hiệu quả lãnh đạo của Đảng là kinh tế của đất nước phát
triển, chính trị-xã hội ổn định, lòng tin của nhân dân được nâng cao, đời sống
vật chất và văn hoá, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, hệ
thống chính trị vững mạnh, quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối
ngoại được mở rộng và vị thế của đất nước không ngừng tăng lên trên trường quốc
tế. Hãy nhìn nhận những kết quả đáng tự hào đó để thấy rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách một Đảng cầm quyền. Đại hội IX của Đảng
(4-2001) và nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã có những bước
đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng từ phát huy dân chủ trong Đảng,
trong xã hội để quyết định những vấn đề lớn của đất nước, đến cải tiến quy
trình ra Nghị quyết chú ý đến tính cụ thể, thiết thực của các vấn đề đặt ra. Từ
quá trình chỉ đạo thực tiễn đến việc chú trọng tổng kết thực tiễn kết hợp với
nghiên cứu lý luận để có những điều chỉnh trong nhận thức và hành động. Chú
trọng tăng cường quan hệ giữa Đảng và dân và từng bước khắc phục bệnh quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Đảng và Nhà nước các cấp. Cần có cách
nhìn tổng thể để thấy những cái được lớn, đồng thời cũng thẳng thắn nhìn nhận
những hạn chế khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo để không ngừng hoàn thiện nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng. ở các địa phương, nội dung và cách lãnh
đạo của Đảng bộ, cấp uỷ lại càng phải cụ thể, thiết thực theo như chỉ dẫn của
Bác Hồ. Làm sao cho mỗi xã, phường, huyện, quận, tỉnh, thành phố, thực hiện tốt
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không để người dân còn đói nghèo,
lam lũ, đẩy lùi tệ nạn xã hội và tiêu cực làm cho nhân dân sung sướng, hạnh
phúc. Làm được như thế nghĩa là sự lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả./.
Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng
PGS-TS Nguyễn Trọng Phúc
Đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang
01:01 |
Luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội và công an luôn là chủ đề được các thế lực thù địch và “diễn biến hòa bình” xác định là một nội dung trọng tâm để chống phá Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những nội dung xuyên tạc và những thủ đoạn xảo quyệt cần phải được vạch trần.
Trong thời gian qua, lợi dụng quá trình đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, nhiều cá nhân, tổ chức, đối tượng thù địch trong và ngoài nước đã đưa ra những ý kiến, quan điểm sai trái, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc như: góp ý đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi bỏ Điều 4 của Hiến pháp năm 2013, đòi Việt Nam thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đòi tam quyền phân lập; đòi tư hữu hóa đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên; hơn thế nữa, họ đòi “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân,… Trong đó luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội và công an được chúng xác định là một nội dung trọng tâm để chống phá Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những người ủng hộ quan điểm này còn cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có kinh nghiệm lãnh đạo đất nước trong chiến tranh, không có kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước trong thời bình; và rằng: Đảng đã “hoàn thành sứ mệnh cao cả”, nay nên trao lại quyền lãnh đạo đất nước cho “lực lượng dân chủ cấp tiến”. Thực hiện nội dung cơ bản này, các thế lực thù địch dùng nhiều ngón đòn và các chiêu bài khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau, khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như là "người trong cuộc” thể hiện "thiện chí khách quan” tham gia góp ý vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, họ cố gắng lôi kéo, tìm kiếm, "khuyên nhủ” Đảng, Nhà nước ta nên thế này, thế khác.
Sự thật, từ những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động luôn thực hiện âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, họ thừa biết rằng đây là lực lượng trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; bởi vậy các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để vô hiệu hóa các lực lượng vũ trang nhân dân. Và đây cũng là một thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có quân đội nhân dân và qông an nhân dân; làm cho lực lượng vũ trang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới làm cho lực lượng vũ trang bị vô hiệu hóa.
Với thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch không có gì khác là muốn làm cho lực lượng vũ trang nhân dân ta dần dần biến chất, từ lực lượng vũ trang của nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, trở thành một đội quân phản bội lại lợi ích của Đảng, của Nhân dân, bảo vệ cho lợi ích của các tầng lớp, giai cấp tư sản. Để thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, chúng tập trung phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; đỏi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phủ nhận học thuyết Mác-Lê-nin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, an ninh, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Chúng rêu rao: “quân đội và công an phải là một lực lượng trung lập”; rằng: “quân đội phải đứng ngoài chính trị”. Tuy nhiên, thực tiễn khẳng định: không có một quân đội nào là "đứng ngoài chính trị", là "trung lập".
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quân đội các nước tư bản đều cho thấy, giai cấp tư sản không hề coi nhẹ quân đội, trái lại, rất coi trọng xây dựng nhân tố chính trị-tinh thần cho lực lượng vũ trang của họ. Vấn đề này, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, khi nói về “lực lượng vũ trang cách mạng”, V.I. Lê-nin đã bóc trần luận điệu lừa bịp đó của giai cấp tư sản: “Không lôi kéo quân đội vào chính trị, đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản... Bọn này trong thực tế bao giờ cũng lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”[1]; mà cái “chính trị phản động” đó là để bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của giai cấp tư sản.....
Thực tiễn cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô tuyên bố xóa bỏ Điều 6 Hiến pháp (quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên xô), chấp nhận đa nguyên, đa đảng đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị của chủ nghĩa Mác- Lênin và sau đó là chấp nhận xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối năm 1991. Với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”; đòi “phi chính trị hóa “lực lượng vũ trang, đòi bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với nhà nước, xã hội và quân đội. Các thế lực thù địch với luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, lừa bịp cũng đã từng thành công trong việc lật đổ chính quyền, chuyển hóa chế độ chính trị ở một số nước Bắc Phi-Trung Đông mang tên “Mùa xuân Arập” như đảo chính quân sự ở Ai Cập, nội chiến ở Xyri, bạo lực và khủng bố ở Tuynidi, Libi, Irắc, điều chỉnh chính sách của Iran, xung đột vũ trang giữa Ixraen và Palextin, và gần đây là ở Ukraina,.….và một số vương triều khác ở khu vực Vùng Vịnh là những nét điển hình trong bức tranh “cách mạng sắc màu” hiện nay. Tất nhiên, sự sụp đổ chế độ ở các nước này còn có những nguyên nhân nội tại khác, nhưng không thể phủ nhận có sự nhúng tay chống phá của các thế lực thù địch.
Đối với nước ta hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục vận dụng “bài học kinh nghiệm” đó. Phải chăng là thủ đoạn thực hiện tinh vi hơn, hình thức đa dạng và khó lường hơn, tính chất nguy hiểm hơn, với ảo tưởng sẽ có được một kết quả tương tự. Với những âm mưu thâm độc! Chỉ có điều Việt Nam hoàn toàn khác, mà họ đang cố tìm cách xâm nhập. Mặc dù vậy, họ không dễ dàng từ bỏ âm mưu; trái lại, bằng mọi thủ đoạn, họ đã và đang thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Nhưng họ có đạt được mục tiêu đó không, nhân tố quyết định không thuộc về những kẻ phản bội đất nước mà do ta. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang cách mạng, của dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó “máu thịt” với Đảng, với nhân dân. Mối quan hệ đó được tôi luyện bằng máu và nước mắt qua mấy chục năm chống kẻ thù xâm lược trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, bất cứ thế lực nào, dù mạnh và hiểm độc đến đâu cũng không thể chia rẽ được lực lượng vũ trang nhân dân với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đó là điều tất yếu, đã, đang và sẽ tiếp tục được khẳng định.
Là con đẻ của một dân tộc và nhân dân anh hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, mầm mống lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân ra đời và phát triển từ những đội tự vệ Công nông đầu tiên trên vùng căn cứ cách mạng Cao Bắc Lạng, nhằm chiến đấu chống quân thù khủng bố, đàn áp, bảo vệ quần chúng và phong trào cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng và làm công tác vận động quần chúng ở vùng đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bằng bạo lực vũ trang. Lực lượng vũ trang nhân dân không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho nhân dân lao động. Đó cũng là mục tiêu chính trị cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng vũ trang cách mạng không chỉ mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân mà còn mang đầy đủ tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Bản chất của lực lượng vũ trangnhân dân Việt Nam thể hiện rõ nét ở sự thống nhất về tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, được biểu hiện sinh động ở lý tưởng chiến đấu, cơ sở chính trị-xã hội, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang.
Lòng trung thành của lực lượng vũ trang nhân dân đối với Đảng, bảo vệ Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang được toàn dân thừa nhận, thực tiễn cách mạng khẳng định, các văn kiện của Đảng thể hiện và điều đó được thừa nhận là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, trong bối cảnh các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng điểm này để xuyên tạc, kích động, chống phá Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, thì việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng là rất cần thiết, nhằm đảm bảo tính pháp lý về vai trò trách nhiệm của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung của Quân đội nhân dân và Công an nhâ dân Việt Nam nói riêng; đồng thời, qua đó cho thấy sự phát triển tư duy mới của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng mới. Điều đó cũng lý giải cho việc tại sao các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách, bằng các hình thức che đậy, trá hình dưới dạng ý kiến “khách quan”, “tâm nguyện” để xuyên tạc lịch sử, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, xã hội và các lực lượng vũ trang nhân dân. Thậm chí, có ý kiến vì nhiều động cơ, mục đích không lành mạnh, đưa ra quan điểm đòi quân đội đứng ngoài chính trị, trung lập về chính trị. Những người đưa ra quan điểm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân thể hiện nhận thức “mơ hồ” về chính trị hoặc vì ý đồ cá nhân đã cố tình làm ngơ không hiểu bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang nhân dân. Họ cho rằng “lực lượng vũ trang là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái hay một thể chế chính trị nào”.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong các lực lượng vũ trang. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch. Thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam nói riêng; tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"; không ngừng chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị 03CT/TW của Bộ chính trị khóa XI về: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ hội nhập quốc tế, trước hết cần tập trung cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ chế, hệ thống chế định và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Cần nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phí chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân, đòi đa nguyên, đa đảng, coi việc xây dựng lực lượng vũ trang chỉ để dùng trong chiến tranh và lo đối phó với chiến tranh.
Tư duy mới về chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới đòi hỏi phải sử dụng hợp lý và phát huy tối ưu vai trò của lực lượng vũ trang trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diền biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang nhân dân luôn chủ động, sẵn sang đối phó thắng lợi với mọi tình huống. Thực hiện điều này cần có những quy định thật rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm và thẩm quyền của các cấp lãnh đạo đối với các vấn đề tổ chức và hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân.
Mặt khác, cần phát triển và vận hành thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả các yếu tố hợp thành cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang thông qua hệ thống tổ chức Đảng, hệ thống chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng ở cơ sở. Do đó, cần tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, chú trọng cấp ủy đảng ở cơ sở và cơ quan tham mưu chiến lược; tập trung nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, nhất là việc chấp hành nghị quyết và Điều lệ Đảng, chấp hành các nguyên tắc tổ chức và chế độ công tác, quy chế và quy trình làm việc trên các lĩnh vực hệ trọng, nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực. Xử lý nghiêm túc những trường hợp vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mất đoàn kết nội bộ, kém tính đảng, thiếu trách nhiệm trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng các tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang cách mạng thực sự trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, là hạt nhân lãnh đạo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân có số lượng và cơ cấu hợp lý, đồng bộ và chất lượng cao, làm nòng cốt trong tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và hoạt động của lực lượng vũ trang.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phòng giam giữ bí mật, xây dựng lực lượng gắn với địa bàn an toàn, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm nhập, cài cắm, móc nối để phá hoại chính quyền ở cơ sở của các thế lực thù địch.
Làm tốt công tác dân vận, tăng cường đoàn kết nội bộ, tích cực góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở và giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng thời xây dựng vững chắc nền tảng chính trị-xã hội của lực lượng vũ trang.
Giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang, tạo chuyển biến mạnh mẽ, có chiều sâu và độ vững chắc về đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, kỷ cương trong lực lượng vũ trang.
Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân, tiếp tục tăng cường và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trangnhân dân là vấn đề chiến lược có tính kế thừa những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng./.
Đại tá, PGS. TS. Trần Nam Chuân
Viện Chiến lược Quốc phòng. Bộ Quốc phòng
Nguồn: tuyengiao.vn
Quốc hội có hai Phó chủ tịch mới
18:30 |
Đại tướng Đỗ Bá Tỵ đã trở thành Phó chủ tịch QH mới, cùng với ông Phùng Quốc Hiển.
Theo kết quả được ban kiểm phiếu công bố sáng nay, ông Đỗ Bá Tỵ, Đại tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nhận được tỉ lệ tán thành cho chức Phó Chủ tịch QH là 92,91%, tỉ lệ không tán thành là 4,45%, 459/484 ĐB có mặt đồng ý, 22 ĐB không đồng ý
Trong khi đó, ông Phùng Quốc Hiển nhận được tỉ lệ tán thành cho chức Phó Chủ tịch QH là 87,65%, tỉ lệ không tán thành là 9,92%, 433/484 ĐB có mặt đồng ý, 49 phiếu không đồng ý.
Bà Nguyễn Thanh Hải, bà Nguyễn Thuý Anh, bà Lê Thị Nga, ông Nguyễn Đức Hải, ông Trần Văn Tuý, ông Võ Trọng Việt, ông Hà Ngọc Chiến, cũng được bầu làm ủy viên UB Thường vụ QH.
Cụ thể, các ông bà được bầu làm ủy viên UB Thường vụ QH có tỉ lệ tán thành từ cao nhất như sau: ông Hà Ngọc Chiến 94,53%, ông Võ Trọng Việt 91,09%, ông Trần Văn Túy 88,87%, ông Nguyễn Đức Hải 88,26%, bà Lê Thị Nga 82,59%, bà Nguyễn Thúy Anh 64,49%, bà Nguyễn Thanh Hải 59,72%.
Như vậy, QH khóa 13 hiện có 4 Phó chủ tịch là các ông, bà Uông Chu Lưu,Tòng Thị Phóng, Đỗ Bá Tỵ và Phùng Quốc Hiển.
Chiều nay, QH sẽ tiến hành bầu cụ thể chức danh Chủ tịch HĐ Dân tộc và chủ nhiệm các UB Tư pháp; Tài chính Ngân sách; Quốc phòng và an ninh; Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và UB Các vấn đề xã hội, đối với các vị vừa trúng cử ủy viên UB Thường vụ QH.
QH cũng bầu Tổng kiểm toán NN mới vào thay cho ông Nguyễn Hữu Vạn được miễn nhiệm cuối tuần trước.
Chung Hoàng - Hồng Nhì
Nguồn: Vietnamnet.vn
|