Đảng viên không gương mẫu - một biểu hiện của “tự suy thoái”

19:59 |

 




Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên không chỉ góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, mà còn củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng. Đảng viên không gương mẫu là biểu hiện của “tự suy thoái”, nên cần tích cực đấu tranh với biểu hiện này.

Đảng Cộng sản Việt Nam được Nhân dân tin yêu gọi là “Đảng ta”. Bởi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh, dù khó khăn gian khổ đến đâu thì đảng viên của Đảng đều nêu cao tinh thần gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, gây bức xúc trong nhân dân. Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết là do những cán bộ, đảng viên này không gương mẫu, dẫn đến “tự suy thoái”.

Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hoàn thành sứ mệnh vẻ vang khi mỗi cán bộ, đảng viên luôn nêu cao tinh thần gương mẫu, đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh khi Đảng cần. Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”1. Theo Người: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”2. Điều đó có nghĩa: một người dù tài giỏi đến đâu mà không thực hành nêu gương thì cũng không thuyết phục được người khác; cán bộ, đảng viên nếu không gương mẫu thì sẽ mất đi vai trò lãnh đạo, tổ chức quần chúng. Vì thế, Đảng ta luôn đề cao nêu gương, coi đó là một phương thức lãnh đạo. Mọi cán bộ, đảng viên phải luôn làm mực thước để đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống. Bác đã dạy: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”3. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ góp phần thực hiện phương thức lãnh đạo của Đảng mà còn xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Trước mọi người, điều quan trọng nhất với mỗi cán bộ, đảng viên là phải tạo ra sự gần gũi, yêu mến, tin tưởng, có như vậy Đảng mới tập hợp được đông đảo quần chúng thành một khối thống nhất có sức mạnh vô biên để vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng vẻ vang.

Với nhãn quan chính trị thiên tài, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống của những người có chức, có quyền. Người cảnh báo: “Có thể những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi. Cho nên bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy”4. Theo Người: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”5. Lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Người cho thấy việc cán bộ, đảng viên không gương mẫu, dẫn đến vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, có tác hại vô cùng to lớn. Để tăng cường trách nhiệm nêu gương, đẩy lùi nguy cơ “tự suy thoái” của cán bộ, đảng viên hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác, tự nguyện nêu gương mọi lúc, mọi nơi. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã chỉ rõ nguyên nhân một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu: “Trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”6. Khắc phục những hạn chế này, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi nêu gương là một biện pháp cơ bản để củng cố lòng tin của nhân dân và đẩy lùi những hạn chế, khuyết điểm của bản thân; trước hết, phải nêu gương về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đó là phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, việc gì có lợi cho nhân dân thì phải ra sức làm, việc gì có hại cho nhân dân phải hết sức tránh. Thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, gần gũi quần chúng, “ít lòng ham muốn về vật chất” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phải ra sức học tập và làm theo tác phong nêu gương của Người, nêu gương trong mối quan hệ với mình, với người, với việc; tiến hành thường xuyên, liên tục; thực chất chứ không hình thức. Đó là yêu cầu cơ bản để việc nêu gương phát huy tác dụng trong công tác và cuộc sống, chiếm được lòng tin yêu của nhân dân. Nêu gương phải là hành động thuộc về bản chất của mỗi cán bộ, đảng viên chứ không phải là việc làm nhất thời. Đồng thời, phải động viên, nhắc nhở người thân của mình thực hiện, như vậy mới không sợ “há miệng mắc quai” và nhân dân mới tin tưởng.

Hai là, kiên quyết, kiên trì thực hiện nghiêm túc các quy định về nêu gương. Thực hiện chủ trương này, Đảng ta đã ban hành một số quy định cụ thể để phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, như: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, ngày 25/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quy định số 08-QĐi/TW, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Các quy định này đã xác định rõ trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Sự nêu gương của người đứng đầu bao giờ cũng có sức lan tỏa mạnh mẽ trong bộ máy để cấp dưới làm theo, sẽ tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội, từ đó củng cố lòng tin của Nhân dân với Đảng. Việc thực hiện các quy định về nêu gương cần gắn liền với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện các quy định về nêu gương. Có kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiêm túc, chống hình thức, coi nhẹ việc thực hiện các quy định về nêu gương.

Ba là, thường xuyên thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; tuyên truyền nhân rộng gương “người tốt, việc tốt”. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là biện pháp quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Vì vậy, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên hiện nay chỉ thực sự đạt chất lượng, hiệu quả khi tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc; kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên thực hiện tốt các quy định về nêu gương. Đồng thời, phát hiện, xử lý nghiêm những người thiếu gương mẫu, vi phạm các quy định, kỷ luật của Đảng, của tổ chức, đoàn thể, kiên quyết không có vùng cấm để răn đe, cảnh tỉnh những cán bộ, đảng viên khác.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo, duy trì chặt chẽ chế độ tự phê bình và phê bình, gắn với phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương và thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Gắn kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên và nhận xét, đánh giá, sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ với kiểm điểm tự phê bình và phê bình việc phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tự giác “tự soi”, “tự sửa” thường xuyên trong công việc hằng ngày, mọi lúc, mọi nơi, từ tư tưởng, nhận thức đến hành động, từ việc lớn đến việc nhỏ,… qua đó kịp thời thấy rõ và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, ngày càng hoàn thiện bản thân.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bởi “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”7; “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”8. Tiến hành có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát sẽ phát huy được ưu điểm, phát hiện và ngăn ngừa hạn chế, khuyết điểm, không để cho hạn chế, khuyết điểm kéo dài, gây hại cho tổ chức, cá nhân, bảo đảm cho bộ máy luôn trong sạch. Do vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Nội dung phải toàn diện, song cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là sự gương mẫu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thái độ, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, v.v. Phát phát huy vai trò của cấp ủy, chi bộ, ủy ban kiểm tra các cấp, của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn vị. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc các cấp và Nhân dân đối với việc nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Đẩy lùi “tự suy thoái” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn mẫu mực, tiêu biểu không chỉ trong công tác mà còn cả trong sinh hoạt đời thường. Thực hành nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên là cam kết chính trị với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, góp phần xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức.

Đại tá, TS. NGUYỄN HUY HOÀNG, Phó Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Chính trị

Xem thêm…

Tặng quà cho Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em khuyết tật xã Thụy An

05:25 |
Vừa qua, Khoa Lý luận Chính trị và Khoa học Xã hội nhân văn (LLCT & KHXHNV) Học viện ANND đã có một hoạt động ý nghĩa tổ chức cho học viên lớp Cao cấp lý luận chính trị hệ không tập trung khóa 2 đi thực tế tại Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em khuyết tật, xã Thụy An, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Đây là một trong những chuỗi hoạt động tình nguyện của Khoa LLCT&KHXHNV nói chung và lớp cao cấp LLCT K2 hệ không tập trung nói riêng nhằm giúp đỡ, chia sẻ đối với những người già, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.  
 Dẫn đầu đoàn thực tế là Thượng tá, TS. Nguyễn Đức Hà, Trưởng khoa LLCT&KHXHNV. Tại đây, đoàn đã thăm hỏi và tặng quà cho các đối tượng chính sách với phần quà trị giá hơn 30 triệu đồng để bà con đón Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021, mỗi phần quà đều gửi gắm nhiều tình cảm, sự sẻ chia với những người già, em nhỏ thiệt thòi trong xã hội. Đây cũng là một trong những tiêu chí hoạt động của Khoa LLCT&KHXHNV là tăng cường thực tế, thực hành và trải nghiệm, nhằm phục vụ việc học tập và nghiên cứu các môn học cho học viên lớp cao cấp lý luận, đặc biệt là môn học Xã hội học trong lãnh đạo, quản lý. 
Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em khuyết tật Thụy An hiện đang nuôi dưỡng gần 300 cháu từ 6 tuổi trở lên và hơn 400 người già không nơi nương tựa. Hoạt động thực tế, thiện nguyện có ý nghĩa, thiết thực của Khoa LLCT&KHXHNV và tập thể lớp Cao cấp Lý luận Chính trị khóa 2, hệ không tập trung đã phần nào giúp đỡ, chia sẻ động viên tinh thần cho các em nhỏ, người già có hoàn cảnh khó khăn đón Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021. 
 Thái Trang
Xem thêm…

Cảnh giác với những chiêu trò phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc

01:22 |
QĐND - Phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là một trong những mục tiêu mà các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ trong thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình". Các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây Nam Bộ... là những địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch... QĐND - Phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là một trong những mục tiêu mà các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ trong thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình". Các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây Nam Bộ... là những địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Cách đây ít năm, hòng kích động, chia rẽ người Kinh với đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã sử dụng tổ chức FULRO tuyên truyền xuyên tạc, rằng "Tây Nguyên là của người Thượng", "Đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi"... Với tinh thần cảnh giác cao độ của người dân, cùng với các biện pháp nghiệp vụ kiên quyết của lực lượng chức năng, chúng ta đã phát hiện và đấu tranh ngăn chặn kịp thời những âm mưu và hành động phá hoại đó. Cảnh giác với những chiêu trò phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc Kinh tế Tây Nguyên đang ngày một phát triển. Ảnh: http://baogialai.com.vn Nhưng các thế lực thù địch không dễ gì từ bỏ. Chúng vẫn luôn tìm cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của chúng ta. Những chiêu trò mà chúng thực hiện như những “nọc độc” vẫn hằng ngày, hằng giờ len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lợi dụng sự lơ là, chủ quan, mất cảnh giác của người dân để tiêm nhiễm, chống phá. Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật, lực lượng chức năng của Việt Nam đã bắt giữ, xử lý nhiều đối tượng nhưng những chiếc "vòi bạch tuộc" của tổ chức FULRO vẫn không ngừng tìm cách vươn xa, chui sâu vào từng ngõ ngách của xã hội để tiến hành các hoạt động móc nối, lôi kéo những phần tử xấu ở trong nước thực hiện các hoạt động chống phá Việt Nam quyết liệt hơn. Điển hình vào cuối tháng 9-2014, tại huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, lực lượng Công an đã bắt giữ 3 đối tượng cầm đầu, gồm: Rmah Blot (54 tuổi), Ksor Hlip (59 tuổi) và Kpă Chul (64 tuổi), cùng trú tại huyện Chư Pưh. Qua đấu tranh khai thác, ta nắm được từ tháng 9-2013 đến nay những đối tượng này đã nhiều lần liên lạc, nhận sự chỉ đạo của một số đối tượng FULRO lưu vong ở nước ngoài để tuyên truyền, lôi kéo bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Chư Pưh bỏ sinh hoạt tôn giáo truyền thống, tập trung nhóm họp "Tin lành Đề Ga", âm mưu chia rẽ người Kinh và người Thượng, kích động chống Đảng, chính quyền; tiếp tục gây dựng cơ sở hoạt động hòng thành lập cái gọi là “Nhà nước Đề Ga”... Để tuyên truyền, lôi kéo được nhiều người dân tham gia vào những chiêu trò của tổ chức phản động này, chúng thường dùng tiền mua chuộc những người nhẹ dạ cả tin, sau đó cung cấp tài liệu phản động để chỉ đạo phát tán. Cũng có nơi chúng lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý của chính quyền, cơ quan chức năng để tổ chức chiếu đĩa DVD tuyên truyền về “Tin lành Đề Ga” cho nhiều người xem và lôi kéo những người dân nhận thức hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, hám lợi trước mắt tham gia vào tổ chức này. Mặc dù thực tiễn đã khẳng định rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng các thế lực thù địch phản động luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận. Để thực hiện mưu đồ đó, một số đối tượng đã phát tán tài liệu bịa đặt, dựng cảnh người dân ăn mặc rách rưới, nhem nhuốc... rồi chụp ảnh, quay camera gửi ra nước ngoài tung lên một số trang mạng nhằm bôi nhọ chế độ, xuyên tạc nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Địa bàn chúng thường hoạt động là ở các buôn, làng thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Nhưng tất cả những chiêu trò đó không qua được tai mắt nhân dân và các lực lượng chức năng. Lợi dụng những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, các thế lực thù địch phản động, trong đó có tổ chức FULRO lưu vong vẫn ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại thành quả cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Việt Nam. Nhưng dù bằng chiêu thức gì chăng nữa, các thế lực thù địch phản động cũng không thể phủ nhận được thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam, không thể chia rẽ được tình đoàn kết đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ngay từ Đại hội lần thứ nhất các dân tộc thiểu số (ngày 3-12-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ sức đoàn kết trong đấu tranh của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không có sự phân chia nòi giống, tiếng nói...”. Thấm nhuần tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một nguyên tắc nhất quán trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới hướng đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Để những chủ trương, chính sách đó thực sự đi vào cuộc sống, Chính phủ đã chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là trên địa bàn Tây Nguyên bám sát cơ sở để tổ chức thực hiện. Các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội được triển khai nhanh chóng đã tạo ra sự đổi thay đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, khoảng cách chênh lệnh về trình độ văn hóa, đời sống kinh tế... giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh ở Tây Nguyên và các địa phương miền núi ngày càng được thu hẹp... Không ai có thể phủ nhận được những thành quả về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những chuyển động căn bản ấy đã góp phần không nhỏ giúp các cấp ủy đảng và chính quyền tăng cường đoàn kết dân tộc, động viên và phát huy sức mạnh to lớn của đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh… Để tiếp tục đấu tranh triệt phá những âm mưu kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch nói chung và của cái gọi là "Tin lành Đề Ga", “Nhà nước Đề Ga” nói riêng, chúng ta cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Cùng với xử lý nghiêm minh những hành vi chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị-xã hội, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến công tác quản lý xã hội. Thực tiễn đã khẳng định, cấp ủy, chính quyền nhất là ở cấp cơ sở đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý, nắm tình hình địa bàn, phối hợp với các lực lượng, các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng, triển khai các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Gần gũi, sát dân, nắm chắc địa bàn còn giúp cho cán bộ, đảng viên kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả, ngăn chặn kẻ xấu lợi dụng. Mặt khác, quản lý chắc địa bàn sẽ giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở chủ động phát hiện, đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động, để từ đó thông qua tuyên truyền tạo ra bước chuyển biến trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác, phát huy trách nhiệm của mọi người dân trong phòng tránh, đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại. Đi kèm với đó, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng. Đẩy lùi đói nghèo, lạc hậu, quê hương khởi sắc, đó chính là cơ sở, nền tảng để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. KIM NGỌC
Xem thêm…

“Cách mạng Tháng Mười Nga là một sai lầm của lịch sử” - luận điệu lố bịch

01:18 |
Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại, có tầm vóc lịch sử và hiệu ứng xã hội rộng lớn, sâu sắc nhất trong đời sống nhân loại hơn 100 năm qua. Vậy mà, có một số người lại không ngừng tung ra các chiêu trò hòng phủ nhận lịch sử và giá trị của cuộc Cách mạng này. Đó là luận điệu lố bịch, cần kiên quyết phê phán, bác bỏ. Họ cho rằng: “Cách mạng Tháng Mười Nga là một sai lầm của lịch sử”(!). Để tăng tính thuyết phục cho luận điệu này, các luận cứ được họ tung ra là: Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ là “cuộc nổi dậy mang tính chất Nga thuần túy”; “một cuộc bạo động phản dân chủ”; một “cuộc đảo chính” nhằm “tiếm quyền” lãnh đạo của giai cấp tư sản và việc thiết lập Nhà nước công - nông Xô viết là “đi chệch” quy luật phát triển chung của xã hội loài người; Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ là “quái thai của lịch sử”, là một sự “đẻ non”, v.v. Vậy sự thật là như thế nào? Trước hết, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là kết quả hợp quy luật của sự phát triển tư tưởng và thực tiễn đấu tranh trong suốt quá trình lịch sử của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. “Sai lầm của lịch sử” mà họ gán cho Cách mạng Tháng Mười là ngay từ đầu, nó đã không đúng với lý luận của Mác - Ăngghen, thể hiện qua nhận thức của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích, nên nó là “quái thai” của tiến trình lịch sử nước Nga và thế giới. Cả lý luận và thực tiễn đều bác bỏ luận điệu này. Giương cao ảnh vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản Vladimir Lênin trong một cuộc tuần hành kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga ở thành phố Stavropol. (Nguồn: AFP/TTXVN) Về mặt lý luận, bất cứ một cuộc cách mạng nào muốn nổ ra thành công đều phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan; giữa tình thế và thời cơ cách mạng. Trong quá trình nghiên cứu sự vận động, phát triển của xã hội tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, cách mạng vô sản “sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở: Anh, Mỹ, Pháp và Đức”1. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã phân tích bản chất của chủ nghĩa đế quốc, phát hiện quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản và dự báo: “chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa”2. Thực tiễn lịch sử cho thấy, Cánh mạng Tháng Mười Nga nổ ra trong điều kiện khác với điều kiện C. Mác đã dự báo, nhưng lại nổ ra ở nơi mà giai cấp công nhân và Đảng Bônsêvích Nga đã chuẩn bị đầy đủ lực lượng và là nơi tình thế cách mạng đã chín muồi. Điều này không phải sai với lý luận chủ nghĩa Mác, mà chỉ là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới. Về mặt thực tiễn, Cách mạng Tháng Mười Nga đã diễn tiến đúng với quá trình vận động tự nhiên của lịch sử. Song, tình thế và thời cơ để cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là vô cùng ngắn ngủi, chỉ trong đêm 24 rạng ngày 25 tháng Mười năm 1917. Đây là thời điểm vô cùng quan trọng và nhạy cảm về phương diện chính trị pháp lý. Bởi, sau Cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai 1917, nước Nga xuất hiện hai chính quyền song song tồn tại: Chính phủ lâm thời tư sản và Xô viết các đại biểu công nhân, binh sĩ, đứng đầu là Xô viết Petrograd. Ngày 24 tháng Mười, Chính phủ lâm thời tư sản tuyên bố sẽ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt cuộc khởi nghĩa ở Petrograd. Trước tình hình cực kỳ khẩn trương và nghiêm trọng đó, V.I. Lênin chủ trương phải tiến hành khởi nghĩa ngay trong đêm ngày 24 tháng Mười, lật đổ Chính phủ lâm thời tư sản, bảo vệ các Xô viết đại diện. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã chứng minh sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về cách mạng vô sản của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích Nga vào thực tiễn nước Nga lúc đó; về nghệ thuật chớp thời cơ tài tình của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích Nga. Thứ hai, Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra trang sử mới đối với nước Nga và mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trên bình diện giai cấp, Cách mạng Tháng Mười Nga thuộc phạm trù cách mạng vô sản, được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Với thắng lợi này, Nhà nước Xô viết - Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới được lập ra; đưa nhân dân Nga từ thân phận nô lệ thành người làm chủ; mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Nga - kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, nó còn mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cổ vũ các cuộc cách mạng trên thế giới đi vào con đường cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại, “hạt nhân” của phong trào cách mạng thế giới. Trên bình diện dân tộc, Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra và tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; giải phóng các dân tộc phụ thuộc đế quốc Nga, biến nước Nga Sa hoàng từ chỗ là “nhà tù của các dân tộc” trở thành một liên bang mà ở đó các dân tộc đều bình đẳng, hợp tác và cùng tiến bộ. Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là động lực cổ vũ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, mà còn thúc đẩy phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tiếp theo tinh thần của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhiều dân tộc trên thế giới đã vùng lên giải phóng khỏi chế độ quân chủ, phát xít, thực dân, đế quốc, phá vỡ từng mảng lớn và tiến tới làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa thực dân, đế quốc thiết lập; xây dựng chế độ xã hội mới do người lao động làm chủ. Với Cánh mạng Tháng Mười Nga, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, quyền tự quyết của các dân tộc được thực hiện. Trên bình diện quốc tế, Cách mạng Tháng Mười Nga đã vượt ra ngoài biên giới nước Nga, làm “rung chuyển thế giới”. V.I. Lênin khẳng định: “Tấm gương Nga chỉ ra cho tất cả các nước thấy một cái gì hoàn toàn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của họ”3, “một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng của ta không phải ở ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc biệt - dân tộc, ý nghĩa riêng cho nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế,... nó có tính tất yếu lịch sử là sẽ tái diễn trong phạm vi quốc tế”4. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với sự lớn mạnh của Liên Xô, đã phá vỡ thế độc tôn của chủ nghĩa tư bản, làm cho nó không còn là hệ thống duy nhất trên thế giới. Đặc biệt, sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành, đã làm thay đổi căn bản cục diện thế giới, mở ra thời kỳ đấu tranh với những mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Một trật tự thế giới “hai cực” được hình thành với một bên là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã tạo thế cân bằng giữa các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới với các thế lực đế quốc; chấm dứt thời kỳ “làm mưa làm gió” của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc khác. Rõ ràng, Cách mạng Tháng Mười Nga không phải là một hiện tượng thuần Nga, càng không phải là sản phẩm được tạo ra từ “sự cuồng nhiệt của ý chí chủ quan, không tưởng” của một cá nhân nào đó như các thế lực thù địch thường rêu rao, xuyên tạc, bóp méo lịch sử, mưu toan xóa bỏ ảnh hưởng và tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng này. Đúng như Chủ tịch Thượng viện Nga, Sergei Mironov, viết trên tờ Nước Nga, ngày 31/10/2007, rằng: khi đánh giá Cách mạng Tháng Mười Nga, nếu “bỏ định ngữ “vĩ đại” là không đúng, vì Cách mạng Tháng Mười Nga, xét theo cả về quy mô và tầm ảnh hưởng đối với các tiến trình trên thế giới, là một cuộc cách mạng vĩ đại”. Thứ ba, ngày nay, mặc dù thế giới có nhiều biến động, đổi thay, nhưng Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn giữ nguyên giá trị “vạch thời đại”, vẫn là niềm cổ vũ cho những người có lương tri với khát vọng về một thế giới tươi đẹp. Trong thế kỷ XX, lịch sử loài người đã trải qua hai sự kiện chấn động tại nước Nga, có liên quan trực tiếp tới chủ nghĩa xã hội: (1). Cách mạng Tháng Mười Nga; (2). Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã. Chúng ta vui mừng trước sự kiện thứ nhất bao nhiêu, thì lại càng đau buồn cho sự kiện thứ hai bấy nhiêu. Năm 2005, trong Thông điệp Liên bang, Tổng thống Nga V. Putin khẳng định: “Liên Xô tan rã là tai họa chính trị nghiêm trọng nhất của thế kỷ XX. Đối với nhân dân Nga, đó là một bi kịch thực sự”. Lợi dụng “tai họa” và “bi kịch” này, các thế lực thù địch lại tấu lên điệp khúc phủ nhận “Bài ca Tháng Mười” với những tuyên bố về sự “kết thúc lịch sử” của chủ nghĩa Mác - Lênin, “sự cáo chung” của chủ nghĩa xã hội hiện thực; phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; cổ xúy cho chế độ tư bản là sự phát triển “tận cùng của lịch sử”, v.v. Song, sức sống của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị, sức sống đó vẫn tiếp tục được khẳng định qua sự nghiệp đổi mới, cải cách và phát triển ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba; qua sự phục hồi và hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế. Tiêu biểu cho phong trào này là phong trào cách tả ở Mỹ La tinh - khu vực được coi là “sân sau” của Mỹ, đã tuyên bố quyết tâm “vượt qua chủ nghĩa tư bản”, xây dựng đất nước theo mô hình “chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”. Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử, nó cung cấp những giá trị to lớn định hướng cho quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản trên thế giới. Theo đó, “Tất cả các dân tộc đều đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ”5. Hiện nay: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”6. Những luận cứ khoa học này góp phần bác bỏ những luận điệu sai lầm về tính “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản và phủ nhận Cách mạng Tháng Mười Nga. PGS, TS. PHAN TRỌNG HÀO, Hội đồng Lý luận Trung ương _________________ 1 - C. Mác và Ph. Ăngghen – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 472. 2 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 26, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 447. 3 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 41, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 04. 4 - Sđd, tr. 03. 5 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 30, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 160. 6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 69.
Xem thêm…

Cảnh giác với những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

01:11 |
Nhận diện đúng những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy đang tồn tại và những nguy cơ có thể gây ra sự bất ổn trước thềm Đại hội lần thứ XIII của Đảng có ý nghĩa thiết thực trọng trong đấu tranh, ngăn chặn những tác động tiêu cực của nó, góp phần quan trọng vào sự thành công của Đại hội. Thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” xuất hiện vào cuối những năm 80 của thế kỷ XIX để chỉ trào lưu xã hội theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội không tưởng nhằm ủng hộ nông dân và nhân danh nông dân đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị và những bất công trong đời sống xã hội. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, nhất là từ năm 2016 trở lại đây, những bất ổn về kinh tế - xã hội, tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; cách mạng khoa học công nghệ; khó khăn trong giải quyết các chính sách xã hội đối với nông dân; tệ nạn quan liêu, tham nhũng và di dân tự do, di tản toàn cầu… là cơ hội thuận lợi để chủ nghĩa dân túy hồi sinh, phát triển mạnh mẽ, tạo ra những “cơn địa chấn” mới, thách thức nền chính trị của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, quan niệm và biểu hiện của chủ nghĩa dân túy thể hiện ở những thủ đoạn chính trị mang màu sắc “mị dân”, đánh vào tâm lý “người nông dân” và đám đông trong xã hội nhằm kêu gọi dân chúng đòi lại “quyền lợi chính đáng của mình”; gây dựng phong trào “nông dân yêu nước” nhằm lôi kéo nông dân, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận. Chủ thể biểu hiện chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam là những cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động chính trị xã hội có quan điểm không tương đồng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Thông qua lời nói, việc làm mang tính “mị dân”, “thân dân”, họ cố tình lôi kéo triệt để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận xã hội và bộ phận quần chúng nhân dân để thực hiện mục đích chính trị. Lợi dụng yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng để xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng. Những người theo chủ nghĩa dân túy có quan điểm “lập lờ nước đôi”, không phủ nhận “sạch trơn”, không thừa nhận chân lý, cũng không tạo ra thế đối lập hoàn toàn với Đảng mà sử dụng chiêu trò “ca ngợi” Đảng một cách “khôn khéo” nhưng về thực chất, họ cố tình chống Đảng, tìm mọi cách làm sai lệch bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng. Họ chủ tâm tách biệt hoàn cảnh lịch sử, điều kiện vận dụng của Việt Nam để ngụy biện, rằng những nguyên lý, quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng một phần, hoặc đúng trong quá khứ, không đúng trong hiện tại, đúng ở phương Tây, không đúng ở Việt Nam, v.v. Cùng với đó, họ ra sức xuyên tạc, bôi nhọ đời tư của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng nhằm hạ thấp danh dự, uy tín, vai trò, công lao cống hiến của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng thế giới. Thực hiện mục đích pha loãng bầu chính trị trước thềm Đại hội XIII, họ cố tình tuyên truyền các luận điệu “điệp khúc” quen thuộc: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là không phù hợp với xu thế thời đại; sai lầm của Đảng trong lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam - một nước có hơn 75% dân cư là nông dân; phủ nhận tính khả thi về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu, chủ trương, giải pháp lãnh đạo trong dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII để xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng. Việc làm của họ là chủ tâm tác động vào đời sống tâm lý, niềm tin của nhân dân, thu hút sự theo dõi, ủng hộ của các phần tử bất mãn, chống đối, cơ hội chính trị và quảng đại quần chúng nông dân với hy vọng nhân dân sẽ mất phương hướng chính trị, “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn ra nhanh hơn. Nhờ đó, có thể phá vỡ khối đại đoàn kết thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, gây mất ổn định chính trị xã hội… cản trở thành công Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lợi dụng đóng góp ý kiến của nhân dân vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng để xuyên tạc, chống phá Đảng. Được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, phản động, thông qua mạng xã hội, các kênh thông tấn, báo chí ở nước ngoài và các trang Website, Blog trong nước, những người theo chủ nghĩa dân túy ra sức tuyên truyền, tác động vào tâm lý, nhận thức, tư tưởng của nhân dân ta nhằm “nắn dòng dư luận”, cổ súy, khuyếch trương những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên để can dự, tác động sâu vào quá trình tham gia đóng góp ý kiến Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Thông qua việc lập một số hội, nhóm với những tên gọi “mỹ miều”, như: “Diễn đàn dân chủ tiến bộ”, “Hội anh em dân chủ”, “Hội nhà báo độc lập”,... để đề xuất các “Thư ngỏ”, “Tâm thư”, “Bản kiến nghị, trao đổi”, “Ý kiến đóng góp”, hoặc tán phát các tài liệu mạo danh, nặc danh các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, các chuyên gia, nhà khoa học, chính khách có uy tín trong và ngoài nước dưới danh nghĩa “đại diện nhân dân”, vì “giai cấp nông dân Việt Nam”…, góp ý cho Đảng, nhưng thực chất là chống phá Đảng, phủ nhận Dự thảo các văn kiện của Đảng. Đồng thời, móc nối, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo và sử dụng những phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị nhằm xuyên tạc, công kích, chia rẽ, chống phá từ bên trong. Họ thường chỉnh sửa làm sai bản chất những nhận định, đánh giá về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và cường điệu hóa những tồn tại, hạn chế trong Dự thảo các văn kiện để quy kết cho sự yếu kém trong thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân vào Đảng và cổ súy tư tưởng “đổi mới, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, v.v. Chính trị hóa các vấn đề kinh tế - xã hội để kích động, lôi kéo một bộ phận dân chúng, gây áp lực cho Đảng trước thềm Đại hội. Lợi dụng danh nghĩa “đại diện nhân dân”, “vì giai cấp nông dân Việt Nam”, những người theo chủ nghĩa dân túy có những phát ngôn “sặc mùi” mị dân khi giải quyết các vấn đề “nóng”, nhạy cảm, bức xúc trong xã hội liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, an sinh xã hội, đất đai, xây dựng nông thôn mới, tôn tạo cơ sở thờ tự, giao thông, giáo dục, môi trường, thiên tai, dịch bệnh, Biển Đông,... nhằm gây sự chú ý của dư luận, lấy lòng dân, kích động, “dẫn dắt dư luận”, tập hợp lực lượng đấu tranh “vì giai cấp nông dân Việt Nam”, như một xu hướng chính trị. Chủ động móc nối với cán bộ, đảng viên có biểu hiện “Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc nghỉ hưu” làm đại diện, người phát ngôn của “nhân dân” nhằm đánh lừa dư luận, lôi kéo lực lượng, làm phức tạp hóa vấn đề, gây khó khăn cho tổ chức đảng, chính quyền và cơ quan chức năng. Từ đó, đặt ra những điều kiện phi lý để mặc cả, gây sức ép, tạo sự đối kháng với tổ chức đảng và chính quyền các cấp . Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhằm chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Các phần tử theo khuynh hướng dân túy thường triệt để lợi dụng, khai thác “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” để lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc những người dân nhẹ dạ cả tin tham gia chống phá trực tiếp vào “vấn đề cấp bách đối với sự sống còn của Đảng, của chế độ” từ bên trong. Họ chủ mưu tác động, lôi kéo, sử dụng một số cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên xuất thân từ nông dân, có biểu hiện “… thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân” để gây rối quá trình chuẩn bị và tổ chức Đại hội. Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy trước thềm Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau: Trước hết, quán triệt và khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tổ chức đảng các cấp quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; tích cực kiểm tra, đôn đốc, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tích cực, chủ động đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với nhân dân, nhất là thế hệ trẻ và nông dân nhằm nâng cao “sức đề kháng” về tư tưởng chính trị, đủ khả năng nhận diện, chủ động đấu tranh, phản bác các biểu hiện chủ nghĩa dân túy. Hai là, Định hướng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận diện, đấu tranh với những biểu hiện theo chủ nghĩa dân túy. Cần có đối sách, biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả để kịp thời ngăn chặn những đối tượng lợi dụng chính sách nhân đạo, nhân văn của Đảng, Nhà nước ta để cấu kết, móc nối các phần tử có quan điểm đối lập, tập hợp lực lượng với danh nghĩa “hòa hợp dân tộc”, “công dân quốc gia”, “kiều bào yêu nước”,… muốn đóng góp công sức xây dựng đất nước, nhưng thực chất là chống phá Đảng, Nhà nước. Vì vậy, cần tiến hành các biện pháp về tâm lý, giáo dục, thuyết phục để đấu tranh, ngăn chặn, cảm hóa, lôi kéo họ trở về với dân tộc, đóng góp cho đất nước phù hợp với chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Cùng với đó, cần nghiên cứu, nắm rõ năng lực, sở trường của từng cá nhân và huy động lực lượng, phương tiện hiện có với những luận cứ, luận chứng sắc bén, thuyết phục, kết hợp giải pháp công nghệ hiện đại để phong tỏa, chỉ rõ nhân thân, âm mưu, thủ đoạn, động cơ, mục đích sự chống phá Đảng để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu bản chất của chủ nghĩa dân túy. Ba là, nêu cao trách nhiệm, trí tuệ, đoàn kết, thống nhất, đảm bảo cho Đại hội lần thứ XIII của Đảng thành công tốt đẹp. Quán triệt Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung ương về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; đề cao tinh thần, trách nhiệm của các đại biểu trong chuẩn bị nội dung đại hội, bảo đảm đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra, nhất là chuẩn bị nội dung báo cáo chính trị và công tác nhân sự. Đây là những vấn đề then chốt mang tính quyết định thành công Đại hội. Dành thời gian thỏa đáng để thảo luận Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng bảo đảm dân chủ, kỹ lưỡng, sâu sắc, hiệu quả, tránh qua loa, hình thức; các ý kiến khác nhau cần thảo luận một cách kỹ lưỡng và đi đến thống nhất trên tinh thần cầu thị, lắng nghe, đoàn kết, xây dựng. Công tác chuẩn bị nhân sự và bầu cử phải thực hiện đúng Điều lệ, quy chế, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, bảo đảm yêu cầu về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Trong đó, chú trọng bầu những người có đức, có tài, có uy tín, có khả năng phát triển tốt thông qua hoạt động thực tiễn. Đồng thời, sáng suốt và kiên quyết sàng lọc, không để lọt những người không đủ điều kiện, tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, lối sống, uy tín… vào Ban Chấp hành khóa mới. Bốn là, xây dựng tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên vững mạnh về mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đội ngũ đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính chiến lược, tạo cơ sở vững chắc trong đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện của chủ nghĩa dân túy chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ. Các tổ chức đảng, từng đảng viên phải luôn kiên định vững vàng, không ngừng học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới và Chỉ thị số 05/CT-TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tổ chức đảng, đảng viên cần quán triệt và nhận diện đúng 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình ở cấp mình. Bởi, trong các biểu hiện ấy, có biểu hiện manh nha của chủ nghĩa dân túy. Chú trọng xây dựng và thực hiện hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và nhân dân. Tích cực, chủ động đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng gắn với thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đề cao công tác kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ luật nhằm giữ vững kỷ cương, nguyên tắc, hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo của tổ chức đảng trong phát hiện, xử lý vi phạm kỷ luật và các biểu hiện dân túy ảnh hưởng đến quá trình chuẩn bị, tiến hành Đại hội Đảng; không để phát sinh các vấn đề mới, phức tạp về chính sách đối với nông dân, nông thôn và nông nghiệp; xây dựng nông thôn mới. Chủ nghĩa dân túy ở nước ta mới chỉ biểu hiện dưới dạng phát ngôn, hành động mang tính mị dân, lôi kéo nông dân của một số người, chưa phát triển thành một hệ thống lý luận, nhưng bản thân nó đang chứa đựng tính đối kháng tư tưởng và sự nguy hại ngày càng hiện hữu hơn khi các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị lợi dụng, cổ súy, cấu kết thành lực lượng đối lập để chống phá Đảng, chế độ. Điều đó sẽ rất nguy hiểm, nếu để nó bùng phát thành xu thế, cao trào. Vì vậy, chúng ta phải nêu cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, không để những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy trở thành “vi rút độc” gây “ô nhiễm” đời sống chính trị, đe dọa đến sự thành công Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Thượng tá, TS. THÁI DOÃN TƯỚC, Phó trưởng Phòng Khoa học Quân sự, Cơ quan Tổng cục Chính trị và Trung tá, ThS. THÁI DOÃN HÙNG, Trường Sĩ quan Pháo binh
Xem thêm…

Giá trị cốt lõi của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh

01:08 |
(LLCT) - Bài viết trình bày những sáng tạo lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh về con đường xây dựng xã hội mới ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã lựa chọn mục tiêu CNXH - một mô hình “cách mạng đến nơi” và xác lập được những giá trị cốt lõi trong mô hình CNXH Việt Nam. Đây là cơ sở vững chắc để đấu tranh với những luận điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay. Giá trị cốt lõi của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh Từ khóa: Hồ Chí Minh, giá trị cốt lõi, mô hình, chủ nghĩa xã hội, Việt Nam. 1. Lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội - sự khẳng định giá trị cốt lõi của mô hình “cách mạng đến nơi” Về sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta chỉ rõ: đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử”(1); gắn liền với tư duy sáng tạo, hợp lô gíc và nhất quán của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thực tiễn đã minh chứng, chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất giải phóng dân tộc Việt Nam, là sự khẳng định trong hiện thực giá trị của một mô hình “cách mạng đến nơi”. Làm thế nào để: “tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc”, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Đó là mong muốn, là mục đích và là động lực để Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bôn ba khắp nơi trên thế giới tìm kiếm con đường thực hiện mục tiêu đó. Sau gần 10 năm đi nhiều nước, đọc nhiều lý luận, học thuyết, học hỏi nhiều kinh nghiệm, tiếp xúc với nhiều hạng người, chứng kiến trực tiếp văn minh phương Tây, đồng thời hòa mình với cuộc sống của người lao động trong xã hội tư bản, Người nhận ra rằng, cách mạng giải phóng của Việt Nam phải học tập nhiều điều ở cách mạng Mỹ (1776) và cách mạng Pháp (1789), nhất là ở tinh thần cách mạng của họ. Nhưng cách mạng Việt Nam có đi theo con đường của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp không? Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát: con đường đó không phù hợp với cách mạng Việt Nam. Bởi đó là những cuộc cách mạng chỉ đem lại quyền lợi cho người giàu, là cuộc cách mạng “không đến nơi”. Theo Người: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(2). Trên con đường khảo cứu thế giới, đặc biệt là những năm tháng hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp ở Pari đã đưa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản. Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã làm sáng tỏ trong Người tất cả những điều đang trăn trở về con đường giải phóng dân tộc, nhân dân. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga Xô viết. Tình hình nước Nga khiến Người nhận thức sâu sắc sự lạc hậu của chế độ phong kiến và sự tàn bạo của chế độ tư sản. Và sự xuất hiện một chế độ xã hội mới, trong đó nhân dân lao động thực sự được giải phóng khỏi áp bức bất công là một thực tiễn mà Người mơ ước thiết lập ở Việt Nam; là mô hình “cách mạng đến nơi” mà Người đang khát khao kiếm tìm. Chính từ đây, Người đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(3), “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4). Theo đó, con đường cách mạng Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á là phải giành độc lập hoàn toàn và tiến lên CNXH. CNXH là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc; cách mạng giải phóng dân tộc phải trở thành cách mạng XHCN thì nền độc lập dân tộc mới được củng cố vững chắc, cách mạng mới giành thắng lợi hoàn toàn. Như vậy, sự lựa chọn mục tiêu CNXH suy cho cùng là quyết định khách quan của lịch sử. Và trong số những khối óc trăn trở tìm tòi con đường cứu nước, lịch sử đã lựa chọn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - người duy nhất lúc đó nắm được cơ hội lịch sử để thay đổi vận mệnh đất nước, thay đổi thân phận con người bằng khát vọng mãnh liệt của dân tộc và của chính Người, thông qua sự nung nấu, trăn trở và mài sắc tư duy theo thời gian của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chứ không phải là sự chủ quan, nhất thời hoặc ngẫu nhiên, hay do vận may lịch sử. 2. Giải phóng con người, nhân dân lao động làm chủ xã hội là giá trị cốt lõi của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những nội dung trọng tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó, những luận giải của Người về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là biểu trưng mẫu mực về sự thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, về tinh thần sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh các nước thuộc địa. Đây là những luận điểm đặt tiền đề quan trọng và là kim chỉ nam cho cho hành trình tới tương lai tươi sáng của dân tộc; là nền tảng vững chắc cho việc tiếp tục phát triển hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mới. Trong di sản lý luận của mình, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã đưa ra những dự đoán về xã hội tương lai - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hai ông đã có công biến CNXH vốn là học thuyết không tưởng thành học thuyết có cơ sở khoa học. Tuy vậy, do điều kiện lịch sử, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ có thể dự đoán những nét chủ yếu, chứ không thể nêu lên một cách chi tiết những quan niệm của mình về xã hội tương lai. Hơn nữa, những dự đoán ấy được hình thành chủ yếu trên cơ sở nghiên cứu hiện thực xã hội TBCN phát triển tương đối cao ở một số nước Tây Âu. Vấn đề đặt ra là: chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không? Có thể có một mô hình CNXH chung cho mọi quốc gia, dân tộc không? Về vấn đề thứ nhất, ngay từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cho rằng cần xem xét tình hình cụ thể ở lục địa châu Á về mặt lịch sử và địa lý. Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo và sự hiểu biết sâu rộng, trên cơ sở nghiên cứu, xem xét các nước châu Á một cách toàn diện cả về lịch sử, xã hội - văn hoá, kinh tế, chính trị... Người đi đến kết luận: “Bây giờ hãy xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”(5). Bởi ở châu Á, tư tưởng về cộng đồng xã hội, bình đẳng, giáo dục và đề cao giá trị nhân văn; tư tưởng phải đấu tranh cho hạnh phúc của con người, đề cao nhân dân... đã phát triển sớm, trở thành cơ sở thuận lợi để tiếp nhận tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Cuối thế kỷ XX, một sự thật lịch sử là trong khi một mô hình CNXH tan rã ở các nước XHCN châu Âu, thì chế độ XHCN lại được củng cố và phát triển ở các nước châu Á như Việt Nam, Trung Quốc... Thực tế đó đã chứng minh nhận định thiên tài của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Về vấn đề thứ hai. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự đoán về xã hội tương lai, song các ông không cho rằng, trong tương lai CNXH sẽ chỉ có một mô hình duy nhất. CNXH về bản chất và mục tiêu là thống nhất, nhưng có nhiều mô hình khác nhau, thể hiện sự đa dạng, phong phú trong việc lựa chọn con đường đi lên CNXH. Mô hình CNXH ở mỗi quốc gia bao giờ cũng mang trong nó những nét đặc thù về lịch sử, văn hóa, dân tộc của quốc gia đó. Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau: từ chủ nghĩa yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hoá... Trên các phương diện, Người đều thấy rằng, về bản chất, CNXH là một chế độ mới khác biệt, một chế độ thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc...”(6). Đối với Việt Nam, CNXH là con đường phát triển tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sau này, trong lý luận nhận thức về CNXH, Người khẳng định thêm nhiều luận điểm quan trọng: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(7); CNXH là “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(8) ... Giá trị xuyên suốt và đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình CNXH gắn liền với khát vọng cháy bỏng của Người; đó là xã hội giải phóng thật sự con người, xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chế độ chính trị - xã hội ưu việt là nhằm giải phóng con người về mặt chính trị. Khi đó, con người mới thực sự là mục tiêu theo ý nghĩa chân chính của nó. Mặt khác, giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột và nô dịch trong xã hội có giai cấp đối kháng là động lực mạnh mẽ, là công cụ chủ yếu để khai thác và phát huy mọi khả năng vật chất và tinh thần của con người vào sự phát triển xã hội. Xã hội XHCN, theo Hồ Chí Minh quan niệm, là một xã hội trong đó con người được tự do, bình đẳng, hạnh phúc, phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã nêu những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cả sáu vấn đề người đưa ra đều liên quan đến con người và giải phóng con người. Đó là: Nhân dân đang đói, làm gì để thoát khỏinạn đói. Nhân dân đang dốt, làm gì để thoát khỏi dốt. Nhân dân chưa được hưởng dân chủ, làm gì để nhân dân được hưởng tự do. Nhân dân bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, phải làm gì để thoát khỏi nạn này. Nhân dân phải chịu nhiều thứ thuế, phải bỏ ngay các thứ thuế đó cho dân. Nhân dân bị thực dân chia rẽ, phải làm gì để đoàn kết nhân dân lại. Trong suốt quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, Người thường xuyên nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo cho dân: việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(9). Như vậy, yêu thương những con người lao động, đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, khỏi sự nghèo đói, dốt nát là điểm xuất phát trong cách tiếp cận mô hình CNXH của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, CNXH là xã hội duy nhất mà quyền con người trở thành hiện thực và có khả năng phát huy cao nhất mọi tiềm năng con người (cá nhân, tập thể, cộng đồng). Với Hồ Chí Minh, con người là chủ thể tích cực của lịch sử, nhân dân là giá trị quý báu nhất, cao nhất; của dân, tài dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển. Không có dân ủng hộ giúp đỡ thì cách mạng không có sức mạnh, không thể thành công. Không có dân thì Đảng không có lực lượng. Có dân, được dân tin, dân yêu, dân phục, lại có đường lối đúng để dẫn dắt dân tranh đấu thì việc khó mấy cũng giải quyết được. Nói đến quyền con người trong CNXH không thể không nói đến tư tưởng dân chủ. Dân chủ XHCN chính là sự thể hiện quyền con người của cá nhân và cộng đồng ở mức cao nhất. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân thì dân chủ là của quý báu nhất trên đời của nhân dân; dân chủ nghĩa là: dân là chủ và dân làm chủ. Quan niệm đó thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa tính nhân văn và tính pháp lý của dân chủ, được thể hiện thống nhất trong nội hàm dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân và vì nhân dân. Nhưng để nhân dân thực hiện được vai trò cách mạng của mình, đem lại hạnh phúc cho chính mình, cần phải có sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới công việc thực tế để xây dựng nền dân chủ tiến bộ thực sự của dân, do dân, vì dân. Người luôn quan tâm xây dựng Đảng trên cả ba phương diện: tư tưởng, lý luận; đường lối chính trị; tổ chức cán bộ. Người đòi hỏi Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn minh, cán bộ đảng viên phải “chính tâm”, “nghiêm pháp”; tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, ngoài ra không còn lợi ích nào khác. Đảng và nhà nước không phải là “cứu tinh” của nhân dân mà có trách nhiệm phụng sự nhân dân, là đày tớ của nhân dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng phải quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng nâng cao dân trí; đặt dân sinh, dân trí, dân chủ trong quan hệ thống nhất. Khi xác lập những đặc trưng cơ bản của CNXH, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh, CNXH không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo, không phải là những sắc lệnh từ trên xuống, mà nó là một phong trào hiện thực, là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Vì thế, mọi sự gò ép, bất chấp hiện thực, công thức hóa những tư tưởng lý luận trên thực tế đều phải trả giá. CNXH hiện thực luôn phát triển, do đó quan niệm về nó cũng phải được phát triển. CNXH và cách mạng XHCN ở Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản nhưng được diễn ra ở một xứ thuộc địa không hoàn toàn giống một cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo ở phương Tây như các nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ ra. Vì vậy, tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi sự vận dụng cần phải “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(10). Đồng thời, nó phải được cụ thể hóa, phát triển và hoàn thiện trong quá trình cách mạng. Hơn nữa, CNXH và con đường đi lên CNXH có nhiều nội dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng và luôn mang tính khả biến, gắn với diễn trình lịch sử trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng. Bởi vậy, để cách mạng thắng lợi, đòi hỏi trong nghiên cứu, hoạch định đường lối và chỉ đạo thực tiễn phải có quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển; phải thấy rõ, phân tích và giải quyết tốt các mối liên hệ, có bước đi phù hợp và những điều kiện cơ bản bảo đảm cho con đường cách mạng được hiện thực hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tìm ra con đường cách mạng Việt Nam mà đã không ngừng phát triển hoàn thiện nó qua các thời kỳ lịch sử với những quan điểm đúng đắn, sáng tạo. Tính cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định con đường cách mạng Việt Nam đã được lịch sử kiểm chứng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc đi lên CNXH, sau chiến thắng 30-4-1975 cả nước đi lên CNXH. Sự phát triển không ngừng của đất nước trước những cam go, thử thách và biến động thăng trầm của lịch sử, những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự vận động của thực tiễn cách mạng đòi hỏi lý luận về mô hình CNXH phải có bước phát triển mới. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và tám đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã phản ánh tổng quát, toàn diện quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự tiếp nối kiên định, hiện thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất nước. __________________ Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2020 (1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.109. (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.292. (3), (4), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30, 563, 415. (5), (6), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.47, 496, 510. (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.610. (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.612. PGS, TS DOÃN THỊ CHÍN Học viện Báo chí và Tuyên tuyền
Xem thêm…

Học tập, làm theo giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên hiện nay

01:07 |
Bài viết chỉ ra giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Giá trị cốt lõi đó là giá trị bền vững cần phải phát huy trong mọi bối cảnh lịch sử, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Việc quán triệt, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên hiện nay là phải làm cho giá trị cốt lõi đó được lan tỏa, thẩm thấu thông qua những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực đem lại lợi ích cho nhân dân, cho dân tộc Việt Nam. Học tập, làm theo giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên hiện nay Từ khóa: Hồ Chí Minh, giá trị cốt lõi, tư tưởng, đạo đức, phong cách. 1. Giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh cần học tập và làm theo đối với cán bộ, đảng viên hiện nay Năm 1946, khi trả lời các phóng viên nước ngoài, Hồ Chí Minh khẳng định rõ mục tiêu, lý tưởng của mình: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). Từ đó có thể thấy, giải phóng dân tộc để đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chính vì vậy, nếu dùng một từ khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh thì đó là từ Dân, Dân ở đây trước hết là nhân nhân và dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam nuôi dưỡng nhân dân Việt Nam, nhân dân Việt Nam gây dựng nên dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam là chủ nhân của dân tộc Việt Nam, nên dân tộc Việt Nam thống nhất với nhân dân Việt Nam và ngược lại, nhân dân Việt Nam thống nhất với dân tộc Việt Nam. Hay nói một cách khác, nước và dân thống nhất với nhau, vì dân cũng là vì nước và ngược lại vì nước cũng là vì dân. Dân theo Hồ Chí Minh bao hàm trong đó nhiều nội dung như dân sinh, dân quyền, dân chủ, dân trí, dân hạnh phúc, dân phát triển... Các nội dung này có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, ví dụ như muốn có dân hạnh phúc, dân phát triển thì phải có dân sinh, dân quyền, dân chủ... và ngược lại, dân hạnh phúc, dân phát triển lại thúc đẩy sự phát triển, sự tiến bộ của dân quyền, dân chủ... Chính vì vậy, các nội dung dân sinh, dân quyền, dân chủ, dân trí, dân hạnh phúc, dân phát triển... thống nhất chặt chẽ với nhau trong khái niệm Dân của Hồ Chí Minh. Do đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc cũng là nhằm giải phóng nhân dân khỏi thân phận nô lệ, khỏi áp bức, bất công, bởi dân tộc có độc lập thì dân sinh mới được tự do, dân quyền, dân chủ, dân trí, dân phát triển, dân hạnh phúc... mới được đảm bảo. Giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc là điều kiện cần cho dân sinh tự do, hạnh phúc, dân quyền, dân chủ, dân trí, dân phát triển... Điều kiện đủ là CNXH, bởi chỉ có phát triển lên CNXH mới xóa bỏ được áp bức bất công, mới có điều kiện vật chất để thực hiện dân sinh hạnh phúc, dân trí phát triển, mới đảm bảo được dân quyền, dân chủ một cách thực chất và triệt để. Do đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh độc lập dân tộc và CNXH gắn liền với nhau và cũng vì mục tiêu tốt đẹp là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, dân chủ... cho nhân dân. Mục tiêu lý tưởng đó luôn đau đáu trong tâm khảm Hồ Chí Minh, và thể hiện nhất quán trong tư tưởng, hành động của Người trong những ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước cho đến tận cuối đời, chính vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính nhân văn cao cả, mang tính nhân bản sâu sắc và đó cũng là giá trị cốt lõi nhất quán trong tư tưởng của Người. Mục tiêu giải phóng nhân dân khỏi áp bức bất công, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân của Hồ Chí Minh được Đảng ta kiên định trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc thống nhất đất nước cũng như trong công cuộc đổi mới. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đề ra hiện nay thống nhất với giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, đối với cán bộ, đảng viên hiện nay, quán triệt, học tập và làm theo giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là quán triệt và thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Để làm được điều đó cán bộ, đảng viên cần tập trung vào mấy vấn đề sau đây: Một là, trong công việc, cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tâm tận lực đối với Đảng, điều đó cũng có nghĩa là nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tâm tận lực đối với nhân dân, bởi vì “không có cái lợi ích nào của Đảng mà không phải là lợi ích của nhân dân, hay ngược lại không có lợi ích nào của nhân dân mà không phải là lợi ích của Đảng”(2). Nhiệm vụ của Đảng là phục vụ nhân dân, nên việc gì có lợi cho Đảng thì phải gắng sức thực hiện, việc gì có hại cho Đảng thì phải hết sức tránh. Phải luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa lợi ích riêng của cá nhân cán bộ, đảng viên với lợi ích của Đảng thì phải ưu tiên lợi ích chung của Đảng. Để làm được như vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nhiệm vụ, chức trách theo tinh thần tất cả vì hoàn thành nhiệm vụ chung của cơ quan đơn vị, việc của cơ quan đơn vị chính là việc của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể (tức của hệ thống chính trị). Nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, đoàn thể cũng là phục vụ nhân dân. Do đó, công việc của mỗi cán bộ đều quan trọng, không được phân biệt việc sang, việc hèn, về vấn đề này Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “không có việc sang, việc hèn, mọi việc đều quan trọng. Mọi người phải làm tròn nhiệm vụ của mình. Tất cả mọi ngành và tất cả mọi người phải đoàn kết thân mật, hợp tác chặt chẽ, như tay với chân, thì công việc mới dễ dàng thành công”(3). Quán triệt tinh thần đó, không phân biệt sang hèn trong công việc, cán bộ đảng viên sẽ tận tâm, tận lực để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, khắc phục được tình trạng chỉ biết việc của mình, từ đó dẫn tới tệ nạn “cục bộ”, mà Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo bằng hình ảnh sinh động là “cua cậy càng, cá cậy vây”(4). Bên cạnh đó, quán triệt tinh thần không phân biệt sang hèn trong công việc sẽ hạn chế được những biểu hiện suy thoái đạo đức, vi phạm kỷ cương, kỷ luật như chạy vị trí, chạy chức, chạy quyền... của một số cán bộ, đảng viên. Hai là, cán bộ phải làm tròn vai trò cầu nối giữa Đảng và dân, góp phần quan trọng để thống nhất giữa Ý Đảng và Lòng Dân. Cán bộ là cán bộ của Đảng mà mục tiêu lý tưởng của Đảng thống nhất với mục tiêu, lý tưởng của nhân dân, của dân tộc Việt Nam; nhiệm vụ của Đảng là phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc Việt Nam. Đảng phục vụ nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ của mình. Điều này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải làm cho mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân luôn luôn thông suốt cả hai chiều. Chiều thứ nhất, cán bộ là những người đem chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và triển khai thực hiện, muốn vậy cán bộ phải nắm chắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là những chính sách liên quan đến công tác của mình, liên quan đến điều này Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Nếu cán bộ không nắm vững chính sách, không đi đúng đường lối quần chúng, thì chính sách hay cũng hóa dở, tốt cũng hóa xấu”. Ngoài việc nắm vững chính sách, cán bộ phải biết dân vận để nhân dân tích cực tham gia, ủng hộ. Chính sách hay nhưng cán bộ yếu kém không làm cho dân hiểu dân tin, không huy động được nhân dân thực hiện thì cũng không phát huy được tác dụng... Chiều thứ hai, cán bộ phải đem tình hình của quần chúng nhân dân báo cáo trung thực với Đảng và Nhà nước, để Đảng, Nhà nước nắm bắt một cách đúng đắn chân thực tình hình thực tiễn, trên cơ sở đó đề ra được chủ trương, chính sách đúng, trúng và kịp thời nhằm đem lại lợi ích chính đáng, thiết thực cho nhân dân, cho đất nước. Trong thời gian vừa qua, do nhiều nguyên nhân, trong đó có bệnh quan liêu, bệnh thành tích mà có tình trạng báo cáo không trung thực gây nguy hại đối với Đảng và nhân dân. Tình trạng tiêu cực, tham nhũng, mất dân chủ... kéo dài ở một số bộ ngành, địa phương trong những năm qua có liên quan đến việc báo cáo không trung thực. Do đó, báo cáo không trung thực cũng rất nguy hiểm, như Hồ Chí Minh đã khuyến cáo: “báo cáo không thật thà cũng là một bệnh rất nguy hiểm”(5). 2. Giá trị cốt lõi của đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần học tập và làm theo đối với cán bộ, đảng viên hiện nay Giá trị cốt lõi trong đạo đức Hồ Chí Minh chính là đạo đức cách mạng, cụ thể là phải bao gồm các phẩm chất: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm. Trong đó, Trí là biết phân biệt địch - ta, tốt - xấu, chính - tà, phải trái... biết nhận thức ưu điểm, khuyết điểm của bản thân để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm... nhằm phục vụ tốt hơn cho Đảng cho dân; Tín là “ngôn tất tín, hành tất quả” tức nói phải tin, làm phải có hiệu quả cho dân, cho nước, và nói đi đôi với làm; Nhân là phải có lòng yêu thương đồng loại, yêu thương nhân dân, yêu thương đồng bào, đồng chí, phải có lòng khoan dung độ lượng...; Dũng là phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều, dám làm dám chịu, không ngại hiểm nguy trong công việc, kiên trì, nhẫn nại để hoàn thành công việc vì nước, vì dân; Liêm là không tham quyền cố vị, không tham sắc tham tài, trọng nghĩa khinh tài, giữ vững sự trong sạch, chính trực trong công việc để phục nhân dân, phục vụ Tổ quốc được tốt nhất(6)... Tất cả các phẩm chất này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Những phẩm chất đó không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau mà còn thống nhất với nhau và nhằm hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân được tốt nhất, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hay nói một cách khác, đạo đức cách mạng là nhằm thực hiện sự nghiệp cách mạng đó là độc lập dân tộc và CNXH cho dân tộc Việt Nam, bởi vì chỉ có độc lập dân tộc và CNXH mới có thể đem lại dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, dân trí phát triển, dân chủ triệt để cho nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì sự nghiệp cách mạng (độc lập dân tộc và CNXH) mới thành công, hay nói một cách khác, đạo đức cách mạng là tiền đề để thực hiện mục tiêu đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, dân quyền, dân chủ cho nhân dân. Đối với cán bộ, đảng viên hiện nay, quán triệt, học tập, làm theo đạo đức Hồ Chí Minh trước hết phải dĩ công vi thượng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tuân thủ kỷ luật, kỷ cương của Đảng và sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải không ngừng tu dưỡng, hoàn thiện bản thân mình một cách toàn diện, không thiên lệch về một phẩm chất nào. Để hoàn thiện bản thân mình một cách toàn diện phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, học tập trên cơ sở thống nhất nhiều phẩm chất, năng lực. Như thống nhất giữa đức và tài, thống nhất giữa hồng và chuyên, thống nhất giữa nói với làm, thống nhất giữa học với hành, thống nhất giữa xây với chống, thống nhất giữa nâng cao đạo đức cách mạng với quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, thống nhất giữa tăng gia sản xuất với thực hành tiết kiệm, thống nhất giữa đổi mới sáng tạo với kỷ luật kỷ cương... Nếu không hội đủ và thống nhất các phẩm chất, năng lực như vậy thì chưa phải là cán bộ toàn diện như Hồ Chí Minh mong muốn, ví dụ như: có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó; lý luận mà không gắn với thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không có lý luận dẫn đường là thực tiễn mù quáng... Bên cạnh đó, để quán triệt, học tập và làm theo giá trị cốt lõi của đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải quyết tâm cao độ trong việc chống lại các bệnh như: bệnh quan liêu xa dân, bệnh chủ nghĩa cá nhân, bệnh lãng phí, bệnh hình thức, bệnh hủ hóa... Đây là những căn bệnh đi ngược lại với giá trị cốt lõi của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; đây là những căn bệnh mà nếu cán bộ, đảng viên mắc phải sẽ làm tổn hại đến lợi ích của Đảng, của nhân dân, đi ngược lại với tinh thần nhân văn nhân bản trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời, để quán triệt, học tập và làm theo giá trị cốt lõi của đạo đức Hồ Chí Minh phải tuyệt đối tuân thủ những Văn kiện, Nghị quyết, Quy định... của Đảng, đặc biệt là những Nghị quyết, Quy định liên quan đến đạo đức cán bộ đảng viên như: Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Những điều đảng viên không được làm (19 điều); Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30-10-2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ (27 biểu hiện)... Ngoài ra, mỗi cán bộ, đảng viên còn cần phải tích cực giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện để các cán bộ, đảng viên khác thực hiện tốt các Nghị quyết, Quy định của Đảng, trên cơ sở đó hiện thực hóa một cách tốt nhất, triệt để nhất chủ trương, đường lối của Đảng nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Phong cách Hồ Chí Minh là những giá trị đặc trưng, mang đậm nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như yêu nước, thương dân, tương thân tương ái... đồng thời phong cách Hồ Chí Minh mang hơi thở của thời đại, của nhân loại như mang tính khoa học, hiện đại, tiến bộ... Đó là phong cách của một anh hùng “mong manh áo vải” nhưng “hồn muôn trượng” như nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa trong bài thơ Bác ơi; đó là phong cách của một danh nhân văn hóa của thế giới, với tâm đức trong sáng, trí tuệ mẫn tiệp, gần gũi, gắn bó với nhân dân, và luôn luôn vì sự tiến bộ của nhân loại. Phong cách Hồ Chí Minh cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết với tư tưởng và đạo đức của Người. Nếu như đạo đức Hồ Chí Minh nhằm thực hiện tư tưởng của Người thì phong cách Hồ Chí Minh vừa nhằm thực hiện tư tưởng, vừa là biểu hiện sinh động của đạo đức cách mạng của Người, có thể nói phong cách Hồ Chí Minh là một trong những phương thức cơ bản thể hiện đạo đức cách mạng của Người. Do đó, phong cách Hồ Chí Minh thống nhất với tư tưởng và đạo đức của Người. Giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh mang tính nhân văn nhân bản, thể hiện ở chỗ tất cả vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền làm chủ... của nhân dân nên giá trị cốt lõi trong phong cách Hồ Chí Minh xét cho cùng cũng là vì dân, đó là phong cách nhằm “tận trung với nước, tận hiếu với dân”; đó là phong cách hướng tới phục vụ tốt nhất cho nước, cho dân; đó là phong cách gần dân, thân dân, tôn trọng nhân dân; đó là phong các kết hợp giữa đại chúng và khoa học, kết hợp giữa bản sắc, truyền thống tốt đẹp của dân tộc với giá trị tinh hoa của thế giới... Phong cách Hồ Chí Minh là nhằm thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất, triệt để nhất tinh thần nhân văn, nhân bản của Người... Vì phong cách Hồ Chí Minh thống nhất với tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh nên để việc quán triệt, học tập và làm theo giá trị cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh có hiệu quả, cán bộ, đảng viên phải biết đặt việc quán triệt, học tập và làm theo giá trị cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh trong mối quan hệ chặt chẽ với việc quán triệt, học tập, làm theo giá trị cốt lõi của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Việc quán triệt, học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh phải được thể hiện trên nhiều phương diện như tư duy, diễn đạt, làm việc, ứng xử, sinh hoạt... dù trên phương diện nào cũng hướng tới phục vụ nhân dân được tốt nhất, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân, đoàn kết với nhân dân để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, đồng thời có trách nhiệm với nhân loại tiến bộ. Theo đó, đối với cán bộ, đảng viên hiện nay, tư duy phải độc lập tự chủ, năng động, sáng tạo; diễn đạt (nói, viết) phải ngắn gọn, cô đọng, rõ ràng, mạch lạc để người đọc, người nghe dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện; làm việc phải khoa học, đem lại hiệu quả thiết thực cho Đảng cho dân, tránh quan liêu, nhũng nhiễu, tham nhũng, hối lộ; ứng xử phải chân tình, nhân ái, khiêm tốn, cầu thị, tôn trọng đồng nghiệp, tôn trọng nhân dân; sinh hoạt phải điều độ, tiết kiệm, chống lãng phí... Đối với cán bộ là lãnh đạo, quản lý, ngoài việc quán triệt, học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh ở những nội dung như trên còn cần phải quán triệt, học tập và làm theo phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh, đó là: Phong cách lãnh đạo dân chủ, biết lắng nghe nhân dân, “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”(7), lãnh đạo dân chủ, biết lắng nghe nhân dân nhưng không được theo đuôi quần chúng, bởi vì “Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu”(8); Phong cách lãnh đạo sâu sát, nắm chắc tình hình của địa hạt mình lãnh đạo cũng như những địa hạt liên quan trực tiếp, do đó, cán bộ lãnh đạo “Phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ”(9), tức là cán bộ lãnh đạo không phải chỉ ngồi bàn giấy nghe báo cáo, mà còn phải thông qua nhiều cách thức khác nhau để nắm bắt tình hình một cách đầy đủ, chân thực và kịp thời nhất; Phong cách lãnh đạo khoa học, giữ vững nguyên tắc, nhưng linh hoạt trong hành động với tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” để đem lại chất lượng và hiệu quả cao nhất cho cơ quan, đơn vị nói riêng, cho đất nước, cho nhân dân nói chung; Phong cách lãnh đạo nêu gương, theo tinh thần cán bộ lãnh đạo đi trước, cấp dưới và làng nước theo sau, để nêu gương đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải có đạo đức, bản lĩnh, tài năng, trí tuệ, tầm nhìn... ở một mức độ nhất định; Phong cách lãnh đạo quyết đoán trên cơ sở bàn bạc dân chủ, đưa ra quyết định phải đúng, trúng và kịp thời, dám làm dám chịu; Phong cách lãnh đạo thấm đẫm tình người nhưng không phải là tùy tiện, vô nguyên tắc, tức là lãnh đạo phải thấu tình đạt lý; Lãnh đạo phải khéo dùng người, biết chiêu hiền đãi sỹ, trọng dụng người tài đức, bởi vì theo Hồ Chí Minh, người tài đức “có thể làm được những việc ích nước lợi dân”(10), để thu hút được người tài đức thì người lãnh đạo phải tài đức, hay nói cách khác là dùng người tài đức để thu hút và sử dụng người tài đức; Lãnh đạo phải phát huy được các loại tài năng khác nhau của cấp dưới, theo Hồ Chí Minh, “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng”(11), nên người lãnh đạo trong quá trình sử dụng cán bộ, cần phát huy cá tính, sở trường của mọi cá nhân, phải tránh tư tưởng cho rằng, cứ giống mình mới là tốt, khác mình là không tốt, dễ sinh bệnh “Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”(12). Nếu mắc bệnh này sẽ không phát huy được, thậm chí làm thui chột tài năng của những người tính tình không hợp với mình, khi đó sẽ làm lãng phí nhân tài, lãng phí “tài sản” của nhân dân, mà nhân tài là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực, vì có nguồn lực nhân tài thì các nguồn lực khác như đất đai, tài nguyên, tài chính... mới có thể phát huy tốt được. Có nhân tài thì mới hiện thực hóa được sự nghiệp cách mạng đầy nhân văn, nhân bản mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Việc quán triệt, học tập, làm theo giá trị cốt lõi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải được thể hiện bằng những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực gắn với chức trách, công việc của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị trên tinh thần vì sự phát triển của đất nước và vì tự do, ấm no, hạnh phúc... của nhân dân. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, cán bộ, đảng viên quán triệt, học tập, làm theo giá trị cốt lõi của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ góp phần vô cùng quan trọng vào việc triển khai thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó thực hiện thành công công cuộc đổi mới và tiến tới hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của Hồ Chí Minh cũng như của Đảng ta. __________________ Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2020 (1), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.187, 504. (2), (3), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.370, 408, 249. (4) https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/tong-bi-thu-chon-nhan-su-khoa-13-tranh-cua-cay-cang-ca-cay-vay-636682.html. (5), (6), (7), (8), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.297, 259-260, 325, 336, 318. (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.610. TS Đinh Văn Thụy Học viện Chính trị khu vực IV
Xem thêm…


Thế hệ Hồ Chí Minh | Ban Quản lý Lăng Bác | Bảo tàng Hồ Chí Minh | Học viện Chính trị Quốc gia |