Home » Archives for 2019-03-31
Vận dụng văn hóa hòa bình và khoan dung của Hồ Chí Minh trong hội nhập quốc tế về văn hóa
01:52 |
(LLCT) - Hồ Chí Minh không chỉ là tấm gương sáng về trí tuệ, tư tưởng, về đạo đức và lối sống, mà còn có những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Nghiên cứu những giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh, trong đó có giá trị về văn hóa hòa bình, văn hóa khoan dung cho thấy tầm nhìn xa, trông rộng của Người đối với việc thiết lập một tương lai lâu dài trong quan hệ đối ngoại và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Những tư tưởng về văn hóa, đặc biệt là văn hóa hòa bình, khoan dung và tấm gương của Hồ Chí Minh là những điều cần được vận dụng trong bối cảnh hội nhập quốc tế về văn hóa giai đoạn hiện nay.
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, thế giới có nhiều đổi thay ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của toàn nhân loại. Trong quan hệ quốc tế, xu thế chủ đạo là các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh, vừa hợp tác cùng tồn tại trong hòa bình. Hội nhập quốc tế trở thành một yêu cầu bắt buộc để phát triển và khẳng định thương hiệu của mỗi quốc gia.
Trong bối cảnh đó, năm 2016, Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước, trong đó chỉ ra phương hướng “chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”(1). Hồ Chí Minh có một tầm ảnh hưởng văn hóa rộng lớn và sâu sắc không chỉ đối với nhiều thế hệ con người Việt Nam mà còn đối với nhiều người ở nước ngoài từ các chính khách, học giả, trí thức, văn nghệ sĩ, đến những người lao động bình thường. “Đó là ảnh hưởng của vĩ nhân, một danh nhân văn hóa thế giới về trí tuệ, tư tưởng, về đạo đức và lối sống cùng với vẻ đẹp cao quý của tâm hồn và tình cảm, toát lên từ cuộc đời, sự nghiệp vĩ đại mà giản dị của Người”(2).
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - hiện thân của văn hóa hòa bình
Văn hóa hòa bình là những yếu tố đối lập với những gì của sự xung đột, của chiến tranh, đó là nền văn hóa mang những giá trị nhân văn, gắn kết con người không phân biệt sự khác nhau, ở nhiều khía cạnh, văn hóa xích lại gần nhau, xây đắp một thế giới của tình đoàn kết, thân ái, hòa hợp và cùng chung sống.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cách mạng Việt Nam đứng trước thực tế phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, cần phải áp dụng mọi phương pháp, kể cả phương pháp đau đớn nhất để cứu vãn tình thế, để không bị cùng một lúc cả thực dân Pháp và quân phiệt Trung Hoa Dân quốc tấn công. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã quyết định hòa hoãn với quân đội của Tưởng Giới Thạch với phương châm phải cân nhắc kỹ lợi hại, chọn cái ít hại nhất. Thực hiện chủ trương trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Hoa kiều khẳng định tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Trung và tuyên bố bảo đảm tự do, an toàn tính mạng và tài sản của Hoa kiều, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam chung sức xây dựng nước Việt Nam mới.
Có thể nói, việc thực hiện khéo léo và thành công sách lược hòa hoãn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã từng bước loại bỏ được âm mưu gây chiến của quân đội Tưởng. Những hành động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy Người đã tìm mọi cách để giải quyết hàng loạt vấn đề mà vẫn tránh được xung đột vũ trang.
Ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng gây chiến ở Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục gửi đến Chính phủ và nhân dân Pháp những thông điệp hòa bình. Trả lời phỏng vấn một phóng viên của Pháp về quan hệ Việt - Pháp, Người nêu rõ: “Chính phủ Việt Nam sẵn sàng chấp nhận cố vấn Pháp đến Việt Nam với tư cách là bạn chứ không phải là kẻ xâm lược”(3).
Ngay những ngày đế quốc Mỹ đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân với miền Bắc rất ác liệt, ngày 12-1-1967, khi tiếp đoàn nhân sĩ, trí thức của Trung tâm nghiên cứu thể chế dân chủ (CSD) đến Hà Nội, trong đó có mục đích thăm dò thái độ của Việt Nam theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với họ: “Tôi sẽ rất sung sướng được đón tiếp Tổng thống Mỹ đến đây một cách hòa bình. Chúng tôi chìa bàn tay hữu nghị ra với bất kỳ quốc gia nào thừa nhận Việt Nam là một nước tự do và độc lập”(4). Hồ Chí Minh luôn lấy hòa bình, hữu nghị và đạo lý làm tiêu chí để phân biệt bạn thù, phân biệt người dân yêu nước với thế lực phản động hiếu chiến trong chính phủ của đối phương, luôn nêu cao ngọn cờ hòa bình, tập hợp rộng rãi nhân dân tiến bộ trên thế giới chống lại các thế lực gây chiến tranh xâm lược. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ và biết “gạn đục khơi trong” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã trở thành nhân tố quan trọng trong đường lối tập hợp lực lượng quốc tế chống chính sách mở rộng chiến tranh đi đôi với lừa bịp hòa bình của chính quyền Mỹ. Thời kỳ này, có hàng nghìn phong trào hoạt động “vì Việt Nam” được tiến hành ở nhiều nước khắp các châu lục. Bản thân người dân Mỹ cũng tham gia rất mạnh mẽ để phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Trong phong trào phản chiến này đã có 8 người Mỹ tự thiêu(5). Đây là minh chứng hùng hồn về tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh mà Chính phủ Mỹ tiến hành ở Việt Nam.
Đó là nét đặc trưng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh - ngoại giao đánh vào lòng người (ngoại giao tâm công). Thực hiện đường lối “Ngoại giao tâm công” với tinh thần “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, chúng ta đã tranh thủ được mặt trận rộng rãi nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần làm cho thế giới đổi thay bằng sự cổ vũ, đoàn kết các dân tộc thuộc địa và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đấu tranh nhằm loại bỏ khỏi đời sống nhân loại sự thống trị, áp bức của chế độ thực dân dưới mọi hình thức, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ.
2. Hồ Chí Minh - hiện thân của văn hóa khoan dung
Khoan dung là chấp nhận sự khác nhau của người khác kể cả tôn giáo, sắc tộc, chính kiến. Khoan dung là một biện pháp để hội nhập với thế giới, là một phương pháp để giữ gìn hòa bình; khoan dung là thái độ ứng xử tích cực mang tính giao lưu đối thoại trong quan hệ giữa các cộng đồng người, các dân tộc khác nhau, thể hiện sự tôn trọng và học hỏi lẫn nhau hướng đến những giá trị nhân loại chung. Văn hóa khoan dung do đó được coi là một yếu tố cho sự phát triển và ổn định.
Khi nhìn nhận về thái độ của Hồ Chí Minh với việc tiếp thu, học hỏi những giá trị tri thức của nhân loại để làm giàu vốn hiểu biết của mình, ta thấy Hồ Chí Minh luôn mở rộng lòng mình, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng không tự bó mình trong truyền thống dân tộc, hẹp hòi, thiển cận mà luôn ra sức nghiên cứu, học tập tinh hoa văn hóa của thế giới từ Đông sang Tây, từ xưa đến nay. Hồ Chí Minh trân trọng mọi giá trị văn hóa của nhân loại, tôn trọng và chấp nhận những giá trị khác biệt với sự lựa chọn của mình.
Tại Hội thảo quốc tế “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong nước và quốc tế khẳng định: “Trong văn hóa Hồ Chí Minh chứa đựng những nhân tố tích cực của tinh thần Cộng hòa Pháp, khát vọng độc lập, dân chủ, nhân quyền Mỹ, tinh thần trọng đạo đức của Khổng giáo, phép biện chứng của Karl Mark; tinh thần cách mạng của V.I.Lênin; chủ thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn”(6).
Hồ Chí Minh làm chủ được nhiều ngôn ngữ khác nhau. Người sử dụng một cách thành thạo trong viết văn, viết báo, làm thơ, viết kịch… Người tự mình học tập rèn luyện để tiếp thu những tầm cao trí tuệ thời đại, từ đó vận dụng và phát triển, sáng tạo và đổi mới, đóng góp vào kho tàng văn hóa thế giới những giá trị đặc sắc, in đậm dấu ấn của dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Khoan dung nhằm tìm sự đồng thuận cho một mục tiêu duy nhất là vì hòa bình, độc lập, tự do cho Tổ quốc mình. Gần 30 năm sống ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã dày công học tập, tiếp thu những cái hay, cái tốt của tinh hoa văn hóa, nhân văn của thế giới có thể vận dụng cho phù hợp với truyền thống nhân ái, khoan dung của văn hóa Việt Nam để phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Đối với Hồ Chí Minh, Người luôn theo đuổi lý tưởng hữu ái, đoàn kết thân thiện giữa các dân tộc, không phân biệt chủng tộc và màu da.
Khoan dung trong cách ứng xử với những người đã chống lại dân tộc Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đối với những thương binh địch, Người chỉ thị phải cứu chữa tận tình, không được để tù binh thiếu ăn trong lúc thuốc men, lương thực của ta không hề dư dật và quyết định trao trả hết tất cả tù binh. Người quan niệm rằng “đã là máu, máu nào cũng là máu đỏ”. Trong khi chống thực dân Pháp xâm lược, Người vẫn đề cao văn hóa Pháp, đối với đế quốc Mỹ Người vẫn ca ngợi truyền thống văn hóa dân chủ và cách mạng Mỹ.
Một nhận xét của UNESCO về con người Hồ Chí Minh để khẳng định tấm gương về văn hóa khoan dung của Hồ Chí Minh, một nhà văn hóa kiệt xuất: “Hồ Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hóa vào một nền văn hóa Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu biết sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hóa khác nhau. Người đã hoàn thành được nhiệm vụ này cả trong việc làm và lời nói của Người, ta có thể nhìn thấy rõ hình ảnh tư tưởng của nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ sĩ dân ca, những gì đem lại nguồn cảm xúc cho nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của Người mang ảnh hưởng của những giá trị và truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hóa Việt Nam hiện đại”(7).
3. Thực hiện văn hóa hòa bình và khoan dung trong hội nhập quốc tế về văn hóa
Ngày nay, cục diện thế giới đang diễn ra nhiều thay đổi sâu sắc, điều này tác động mạnh đến sự phát triển của các quốc gia dân tộc và quá trình toàn cầu hóa hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa bước vào giai đoạn mạnh mẽ, toàn diện, biến thế giới thành một thực thể liên kết chặt chẽ không chỉ về kinh tế, thương mại, an ninh, chính trị, mà còn cả về văn hóa tinh thần.Năm 2016, lần đầu tiên cụm từ “Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa” được khẳng định trong nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Đây không phải là nhận thức mới của Đảng mà là sự nhấn mạnh, sự chuyển biến trong tư duy hội nhập toàn diện với tư thế chủ động, tích cực.
Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa được Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang từng bước tiến hành thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế về văn hóa(8)
Hội nhập về văn hóa là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa - giáo dục và xã hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa - xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác - phát triển văn hóa - giáo dục - xã hội với các nước.
Mở cửa về văn hoá trong bối cảnh của Việt Nam được hiểu là một chính sách cùng với các chính sách khác như kinh tế, chính trị, đối ngoại... thể hiện quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được đánh dấu kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12-1986): “Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về khoa học và kỹ thuật. Thông qua hợp tác để nhanh chóng nắm bắt các thành tựu khoa học - kỹ thuật, tránh lãng phí do nghiên cứu trùng lặp. Gắn chặt hợp tác khoa học - kỹ thuật với hợp tác kinh tế. Xây dựng và thực hiện chính sách chuyển giao công nghệ có chọn lọc, kết hợp với công tác nghiên cứu trong nước”(9).
Trên cơ sở triển khai đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định lợi ích và mục tiêu cao nhất về đối ngoại là giữ vững hoà bình để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia. Bên cạnh những hoạt động hội nhập kinh tế, hội nhập quốc tế về văn hóa cũng dần được chú trọng triển khai, đây cũng chính là sự kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo tinh thần văn hóa vì hòa bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại
Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa thông qua việc ban hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, thông báo, thông tri, kế hoạch về hợp tác, giao lưu văn hóa với nước ngoài và những hoạt động có nội dung liên quan đến công tác này, như: hoạt động giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới (quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới); hoạt động tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, truyền bá những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước để xây dựng văn hóa Việt Nam; hoạt động nâng cao trình độ dân trí, bản lĩnh văn hóa cũng như năng lực tiếp thụ tinh hoa văn hóa nước ngoài của nhân dân; đấu tranh ngăn chặn những cái xấu, cái độc hại, phi văn hóa, những vấn đề mặt trái của toàn cầu hóa văn hóa ảnh hưởng đến Việt Nam.
Năm 1998, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7-1998) đã thông qua Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết đã chỉ ra một trong những thành tựu của thực trạng giao lưu văn hóa với nước ngoài, đó là “giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ về văn hóa. Qua giao lưu quốc tế về văn hóa chúng ta vừa có dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam, qua đó nâng cao uy tín của dân tộc, của Tổ quốc ta”(10). Tại Hội nghị này, quan điểm của Đảng về chủ trương mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa thể hiện rõ ở nhiệm vụ thứ chín trong mười nhiệm vụ cần phải thực hiện để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới; tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy. Giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước”(11). Nghị quyết đã vạch ra những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa, đề ra giải pháp để thực hiện nhiệm vụ mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa. Theo hướng đó, Đảng nhấn mạnh mở rộng, khuyến khích xuất khẩu sách, báo, văn hóa phẩm. Nâng công suất và thời lượng phát thanh, truyền hình ra nước ngoài; tăng cường trao đổi các đoàn nghệ thuật, điện ảnh, các cuộc triển lãm, các cuộc thi đấu thể thao; hình thành cơ chế phối hợp, chỉ đạo tập trung các cơ quan và lực lượng làm công tác đối ngoại trên lĩnh văn hóa - thông tin. Đặc biệt, trong nghị quyết này, nội dung có liên quan đến chủ trương mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa của Đảng là tận dụng thành tựu của mạng internet để giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới; đẩy mạnh thông tin đối ngoại, đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn chế tác dụng tiêu cực qua mạng internet cũng như qua các phương tiện thông tin khác.
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2003) tiếp tục khẳng định chủ trương đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa như sau: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại; vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, làm phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc”(12).
Ngoại giao văn hóa đã trở thành một lĩnh vực đặc biệt trong chiến lược ngoại giao toàn diện của Việt Nam, nó “liên quan đến việc sử dụng văn hoá như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại của quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước, quảng bá văn hoá và ngôn ngữ quốc gia ở nước ngoài”(13). Đây là một biểu hiện đổi mới trong tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đó là việc coi trọng nội dung văn hoá trong hoạt động ngoại giao. Trong đó, hoạt động hợp tác quốc tế về văn hoá ngày càng được chú trọng phát triển: “Việc mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển của Việt Nam. Hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa giúp đạt các mục tiêu mà chính sách văn hóa đặt ra, đó là tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước, góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Không những thế, hợp tác về văn hóa còn là nền tảng để mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác”(14). Thông qua các hoạt động văn hóa, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin đối với Việt Nam, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Nghiên cứu những giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh, trong đó có giá trị về văn hóa hòa bình, văn hóa khoan dung cho thấy tầm nhìn xa, trông rộng của Người đối với việc thiết lập một tương lai lâu dài trong quan hệ đối ngoại và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong giới hạn của bài viết này, tác giả nhận thấy mối tương đồng và sự kế thừa của Đảng ta trong việc hướng đến xây dựng môi trường hòa bình cho sự phát triển, trên cơ sở triển khai đồng thời chủ trương hội nhập kinh tế, hội nhập văn hóa và một số lĩnh vực khác. Đối với việc hội nhập quốc tế về văn hóa là một vấn đề cần nghiên cứu ở nhiều khía cạnh. Chủ trương hội nhập quốc tế về văn hóa của Đảng đã được đề cập ở mức cần phải chủ động hội nhập, do đó việc tiếp tục nghiên cứu đề xuất các biện pháp để hội nhập văn hóa được hiệu quả là một trong những yêu cầu quan trọng trong giai đoạn tiếp theo.
_______________________
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2018
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.130.
(2) Hoàng Chí Bảo: Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 194-195.
(3) Đặng Văn Thái: “Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954”, luận án tiến sĩ lịch sử, Hà Nội, 2002, tr. 52.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 20-21.
(5) Nguyễn Huy Toàn: “30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) hỏi và đáp,Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.165.
(6) http://www.vietnamplus.vn: Hồ Chí Minh, biểu tượng tích hợp văn hóa Đông - Tây.
(7) http://www.thehehochiminh.net: Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại.
(8) Phạm Bình Minh: Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.48.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987, tr.75-80.
(10) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.22-23.
(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.67-68.
(12) ĐCSVN: Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong những năm sắp tới, Hà Nội, 2003.
(13) Vũ Dương Huân: Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 311.
(14) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Phát biểu của Thứ trưởng Hồ Anh Tuấn tại Lễ khai mạc Hội thảo “Văn hóa đối ngoại trong thế giới hội nhập”,ngày 30-11-2011 tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2011.
TS Trịnh Thúy Hương
Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 Khóa XII của Đảng
01:49 |
Trong Nghị quyết số 26 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Triển khai thực hiện thành công Nghị quyết này sẽ đáp ứng được những đòi hỏi về cán bộ và công tác cán bộ trong tình hình mới, góp phần quan trọng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Ngày 19-5-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Lần đầu tiên sau 20 năm kể từ Nghị quyết số 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đã được Trung ương đề cập một cách toàn diện, sâu sắc với nhiều đổi mới quan trọng, đột phá. Để quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 26, chúng ta cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ phù hợp thời kỳ đổi mới đất nước.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1).“Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Vì vậy, Người yêu cầu, cán bộ phải đáp ứng được những tiêu chuẩn về tư cách, phẩm chất, năng lực. Trong đó, về tư cách, cán bộ phải là người có tư cách đạo đức trong sáng, gương mẫu. Người căn dặn: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng. Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết. Đồng thời, phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Người đề ra yêu cầu người cán bộ cách mạng: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tuỵ. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”(3). Thực hiện hài hòa những mối quan hệ cơ bản đó sẽ đem lại lợi ích lớn cho cán bộ, đó là được việc và được lòng người. Bởi lẽ, “Đảng viên, cán bộ và lãnh tụ khác với những người thường. Họ là những người chiến sĩ tiên phong của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy, họ hoàn toàn không được đại biểu cho lợi ích cá nhân, mà phải đại biểu lợi ích của dân tộc, của giai cấp”(4).
Đối với tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực của người cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Người khẳng định: “Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc”(5). Trong Di chúc (1969), Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”(6). Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, Hồ Chí Minh không chỉ rèn luyện và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên mà bản thân Người là một tấm gương mẫu mực tự thực hiện những tư tưởng và khát vọng đạo đức do chính mình đề ra. Người cho rằng, bên cạnh tiêu chuẩn về đạo đức, cán bộ phải có năng lực đáp ứng được yêu cầu công việc. Cán bộ chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn; cán bộ, đảng viên “phải chịu khó học tập chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống của nhân dân ngày càng no ấm, tươi vui”(7). Cán bộ cách mạng phải là người hội tụ cả đức lẫn tài để đảm đương trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; lãnh đạo nhân dân, tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng.
Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh luôn coi việc xây dựng đội ngũ và huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người đề ra nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện, bố trí và sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Ngay từ năm 1920, khi trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước tại Việt Nam để chuẩn bị nền tảng về lý luận cho sự ra đời của Đảng. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc); gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Khi Đảng ra đời năm 1930, Người tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, đảng viên; trực tiếp viết thư gửi Quốc tế Cộng sản đề nghị được giúp đỡ, đào tạo lý luận cho đội ngũ cán bộ cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, mục đích của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, có đủ khả năng để gánh vác sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người coi trọng đào tạo, huấn luyện toàn diện, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực để cán bộ thật sự trưởng thành và làm tròn vai trò, bổn phận của mình đối với Đảng, với nhân dân. Trong đó, có 4 nội dung quan trọng người cán bộ cách mạng cần tích cực rèn luyện, học tập, đó là: lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; phương pháp, cách thức làm việc hiệu quả, hợp lý; vốn tri thức - kiến thức của dân tộc, nhân loại và năng lực, trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ. Người ví việc tu dưỡng, rèn luyện của mỗi con người, mỗi cán bộ, đảng viên “cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(8). Chỉ có sự nỗ lực học tập, rèn luyện không ngừng mới đem lại tiến bộ cho con người cũng như mang lại hiệu quả cho công việc chung của tập thể.
Đối với công tác bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng phải trọng dụng nhân tài, trọng cán bộ. Muốn vậy, phải biết rõ cán bộ; phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng; phải khéo dùng cán bộ; phải phân phối cán bộ cho đúng; phải giúp cán bộ và giữ gìn cán bộ. Việc xem xét, đánh giá cán bộ thường xuyên giúp cho phát hiện những người tài, người có ích và làm lộ ra những người hủ hóa. Cất nhắc cán bộ dựa trên sự tin cậy, gần gũi và làm được việc, khiến cho quần chúng tin yêu, mến phục. Khéo dùng cán bộ thì giúp phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm cho họ, bởi lẽ nhân vô thập toàn, không có ai cái gì cũng tốt và cái gì cũng hay, nên tùy tài mà dùng người. Phân phối cán bộ cho đúng thì phải dùng đúng người vào đúng chỗ và giao đúng việc, có như thế công việc mới trôi chảy. Cách dùng người theo kiểu “dụng nhân như dụng mộc” của Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ phát huy tối đa những tiềm năng, thế mạnh để cống hiến sức lực, trí lực và tâm lực cho Đảng, cho nhân dân.
Tựu chung lại, những luận điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là cơ sở để Đảng nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII
Cán bộ cấp chiến lược là bộ phận nằm ở thượng đỉnh của tháp nhân sự, giữ các vị trí trọng yếu mang tính quyết định toàn cục sự nghiệp cách mạng. Theo đó, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được xác định là lãnh đạo các cơ quan Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đây là đội ngũ có vai trò quyết định và giải quyết những vấn đề chiến lược của Đảng, Nhà nước, quốc gia, dân tộc; có ảnh hưởng lớn đến tất cả các khâu trong công tác cán bộ của Đảng. Họ là những người trực tiếp ra quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo việc thực thi một cách đúng đắn cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Thực tế, ngay từ Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở Cương lĩnh 1991, Đảng đã nhận thức rất rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ thông qua việc xây dựng quan điểm chỉ đạo; các mục tiêu, tiêu chuẩn cán bộ và những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ CNH, HĐH. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), căn cứ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Trung ương ban hành Nghị quyết 26 nhằm tổng kết, đánh giá những thành tựu, hạn chế của công tác cán bộ và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng được yêu cầu thời đại. Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, cần phải có những giải pháp hữu hiệu khắc phục ngay. Đó chính là đội ngũ cán bộ hiện nay đông nhưng chưa mạnh; thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm... Trong khi đó, công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc...
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém được Trung ương chỉ ra trong Nghị quyết 26, đó là: Nhận thức và ý thức trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị còn hạn chế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa nghiêm túc, đầy đủ; tiêu chí và cơ chế, chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất cập; phân công, phân cấp, phân quyền còn lỏng lẻo dẫn tới chưa kiểm soát chặt chẽ quyền lực; chưa phát huy được vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo chưa phát huy hết hiệu lực, hiệu quả...
Để khắc phục những hạn chế vừa nêu, đồng thời phát huy những kết quả đạt được trong Chiến lược cán bộ và kế thừa những tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nghị quyết 26 xác định, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được coi là một trọng tâm trong công tác cán bộ và là vấn đề hệ trọng của Đảng: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”(9). Đây chính là quan điểm có ý nghĩa sâu sắc về khoa học, lý luận và thực tiễn về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta; cũng là điểm mới có tính đột phá về tư duy của Đảng về công tác cán bộ.
Nghị quyết nhấn mạnh các quan điểm có tính nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn; quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Các quan điểm đã phản ánh trình độ khái quát hóa thực tiễn và tổng kết lý luận cao, làm cơ sở để đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn công tác cán bộ.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trên sơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt tinh thần Nghị quyết 26, chúng ta cần thực hiện đồng bộ những giải pháp cấp thiết sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, mà trước hết là những người đứng đầu và các cơ quan tham mưu của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ
Nghị quyết 26 khẳng định nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là trọng tâm trong công tác cán bộ và là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, mà trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan tham mưu trực tiếp về công tác tổ chức cán bộ cần quan tâm thường xuyên, liên tục tới công tác cán bộ, từ khâu đầu tiên là đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến giới thiệu, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và đãi ngộ cán bộ. Đội ngũ tham mưu phải khách quan, tận tâm, tận lực tham mưu cho Đảng những giải pháp thu hút và chiêu mộ được những người có tâm, có tài tham gia vào bộ máy chính trị và đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Quá trình tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược phải được thực hiện thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Tinh thần khoa học và thận trọng biểu hiện qua việc nghiên cứu cụ thể, kỹ lưỡng tình hình thực tế tại mỗi địa bàn, mỗi lĩnh vực; đánh giá đúng những mặt tích cực và hạn chế của công tác cán bộ để tiến hành tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về cán bộ và công tác cán bộ cấp chiến lược. Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn là động lực, mục đích và là cơ sở cho việc nhận thức được những nguyên tắc, quan điểm, phương pháp xây dựng và tổ chức đội ngũ cán bộ cấp chiến lược một cách khoa học, hợp lý. Căn cứ nhận thức về thực tiễn sinh động, khái quát thành cơ sở lý luận về cán bộ giúp Đảng hoạch định những chiến lược mới, chính sách mới phù hợp với tình hình thực tế đất nước; sớm khắc phục những hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung trong nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; xây dựng được tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, các cơ quan tham mưu của Đảng tiếp tục nghiên cứu, bổ sung bộ tiêu chuẩn, tiêu chí của cán bộ cấp chiến lược phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới làm căn cứ để bố trí và sử dụng cán bộ
Nghị quyết 26 nêu rõ: “Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt”(10)... Cán bộ cấp chiến lược phải có năng lực chính trị vượt trội, với tầm nhìn và năng lực hành động vĩ mô, có như vậy, công việc lãnh đạo, định hướng cả hệ thống, bộ máy mới trôi chảy, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước mới thu được thành quả lâu dài và bền vững. Nghiên cứu, xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn cán bộ cấp chiến lược thật cụ thể và tỷ mỷ trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn một cách khoa học.
Trung ương đã vận dụng các tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực người cán bộ cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thành các tiêu chuẩn cụ thể cho cán bộ cấp chiến lược trong giai đoạn hiện nay, đó là: tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và CNXH. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân... Là mẫu mực về phẩm chất đạo đức; sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tuyệt đối không tham vọng quyền lực; là trung tâm đoàn kết, gương mẫu về mọi mặt. Trình độ cao về chuyên môn, chính trị, quản lý nhà nước; trình độ ngoại ngữ, tin học phù hợp. Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có năng lực tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; có khả năng phân tích và dự báo tốt. Năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; gắn bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ. Là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao...
Trên cơ sở các tiêu chí đề ra, phải đánh giá xuyên suốt cả quá trình phấn đấu, trưởng thành, đánh giá liên tục, đa chiều và công khai kết quả. Đảm bảo yêu cầu “Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược”(11).
Thứ ba, tăng cường bồi dưỡng cho cán bộ cấp chiến lược thông qua rèn luyện về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức và năng lực, trí tuệ
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ mà nhất là cán bộ cao cấp, đều là công bộc của nhân dân, từ nhân dân mà ra, phụng sự nhân dân, phục vụ Tổ quốc, vì thế, phải toàn tâm, toàn ý lo cho dân: “Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay bại là một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí”(12). Cán bộ cấp chiến lược cần được lựa chọn kỹ càng, chăm lo, rèn luyện bài bản, sàng lọc kỹ càng, quản lý chặt chẽ với chế độ đãi ngộ phù hợp để phát huy năng lực lãnh đạo, sáng tạo và đổi mới. Cán bộ quy hoạch vào các chức danh cấp chiến lược phải được đào tạo toàn diện đảm bảo được các tiêu chuẩn, tiêu chí nghiêm ngặt về phẩm chất chính trị; về đạo đức tác phong; về năng lực trình độ chuyên môn cũng như khả năng lãnh đạo, quản lý. “Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có sản phẩm cụ thể, có triển vọng phát triển”(13).
Trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên số hóa, hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu để phát triển thì cán bộ cấp chiến lược phải có phẩm chất, năng lực, trình độ cao, am hiểu sâu sắc những vấn đề của quốc tế và thời đại; thích ứng nhanh nhạy với môi trường quốc tế; có khả năng quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị. Do đó, cần đầu tư thỏa đáng cho cán bộ, mà cụ thể như Nghị quyết 26-NQ/TW đã nêu: Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng; tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho các chức danh cấp chiến lược; xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với địa phương, giữa các ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
Thứ tư, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới công tác bố trí, sử dụng cán bộ cấp chiến lược trên cơ sở thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
Xuất phát từ thực tế trong Đảng, có nơi, có lúc còn xảy ra tình trạng buông lỏng lãnh đạo đối với công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy hoạch, bổ nhiệm, tạo kẽ hở cho chạy chức, chạy quyền, tham nhũng. Cần thiết lập trật tự, kỷ cương trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ một cách tổng thể, đồng bộ và liên thông trong toàn hệ thống chính trị.
Đối với bố trí cán bộ chủ chốt, phải đảm bảo có kế hoạch, lộ trình, bước đi cụ thể phù hợp với từng giai đoạn và nhiệm vụ từng thời kỳ cách mạng. “Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ”(14). Bố trí cán bộ dựa trên năng lực, sở trường cũng như các yếu tố về giới tính, về độ tuổi, dân tộc... Người trẻ có tài được ưu tiên vào vị trí lãnh đạo, kể cả vượt cấp.
Sử dụng cán bộ phải kết hợp sự đánh giá khách quan, công bằng, thực chất để đãi ngộ xứng đáng, thưởng phạt phân minh, tăng tính chịu trách nhiệm. Đánh giá cán bộ cấp chiến lược sẽ gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của lĩnh vực, ngành, địa phương và so sánh với các chức danh tương đương; đánh giá để bổ nhiệm và bầu cử phải trực tiếp khảo sát, gặp gỡ, trao đổi đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan và tiếp nhận ý kiến phản ánh, đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân để nắm rõ cán bộ. Chú trọng chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm. Có như vậy mới tạo điều kiện cho cán bộ cấp chiến lược phát huy được vai trò, sứ mệnh đặc biệt quan trọng của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Như vậy, trong công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là trong Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII (Nghị quyết số 26), Đảng ta đã không ngừng vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thận trọng, thường xuyên, có hiệu quả, để qua đó xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ được giao. Triển khai thực hiện thành công Nghị quyết này sẽ đáp ứng được những đòi hỏi về cán bộ và công tác cán bộ trong tình hình mới, góp phần quan trọng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
_____________________
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2018
(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.309, 280, 498.
(4), (5) Sđd, t.6, tr.291, 117.
(6), (7) Sđd, t.15, tr.611, 279.
(8) Sđd, t.11, tr.612.
(9), (10), (11), (13), (14) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr.54, 72, 71, 70-71, 71.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.415.
PGS, TS Nguyễn Xuân Trung
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS Trần Thị Thanh Giang
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên
Bài giảng của GS Hoàng Chí Bảo: Học Tập Chuyên Đề : Xây Dựng Phong Cách, Tác Phong Cán Bộ Đảng Viên Trong Đạo Đức Hồ CHí Minh
01:41 |Trân trọng giới thiệu đến các bạn bài giảng của Giáo sư Hoàng Chí Bảo
Học Tập Chuyên Đề : Xây Dựng Phong Cách, Tác Phong Cán Bộ Đảng Viên Trong Đạo Đức Hồ CHí Minh