Home » Archives for 2022-04-17
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
02:22 |1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, với những nội dung nổi bật là: Xây dựng pháp luật để thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân; Ban hành pháp luật để tổ chức bộ máy nhà nước, thực hiện một nhà nước pháp quyền; Ban bố pháp luật để công bố các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; Nghiêm trị bằng pháp luật các tội phạm và vi phạm pháp luật; Pháp luật phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật được hình thành và phát triển gắn liền với các dấu mốc lịch sử trong cuộc đời hoạt động cách mạng gần sáu mươi năm liên tục của Người (từ năm 1911 đến năm 1969), bao gồm:
Giai đoạn từ tuổi thiếu niên đến trước ngày ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc: từ lòng yêu nước truyền thống và được tiếp xúc với tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của Cách mạng tư sản Pháp, ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi sang phương Tây để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đây là sự kiện đánh dấu bước đầu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Trong giai đoạn từ giữa năm 1911 đến năm 1930, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc tập trung nghiên cứu bản chất chế độ nhà nước và pháp luật tư sản; tiếp nhận lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật; đưa ra những phác họa về mô hình nhà nước và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam.
Từ việc phê phán mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc chế độ cai trị thuộc địa và chế độ nhà nước, pháp luật tư sản, thể hiện rõ nhất qua các tác phẩm: "Yêu sách của nhân dân An Nam", "Nhời hô hoán cùng Hội Vạn quốc", "Bản án chế độ thực dân Pháp" và "Đường Kách mệnh", Nguyễn Ái Quốc cho rằng phải thiết lập chế độ nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; song Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản, vì đó là những cuộc “cách mệnh không đến nơi”.
Được tiếp xúc và nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định đây là học thuyết duy nhất đúng đắn để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam và xây dựng đất nước. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ III. Đó là những sự kiện khẳng định lý luận mác xít về nhà nước và pháp luật trở thành nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đầu năm 1930, trong các văn kiện chuẩn bị cho Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra những phác thảo đầu tiên về mô hình nhà nước và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam. Đây là những dấu ấn cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đã bao hàm cả tư duy lý luận và tư duy thực tiễn, gắn cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Giai đoạn từ năm 1931 đến năm 1940: những phác thảo bước đầu của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam đã bị Quốc tế cộng sản phê phán gay gắt và đưa ra chủ trương thay thế; song Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên định lập trường và tư tưởng của mình. Người đã có những bài viết phê phán những quan điểm phiến diện về cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1931 đến năm 1939 đã chứng minh tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam; và sau này được chính những người tham gia Quốc tế Cộng sản thừa nhận(1). Như vậy, chính thực tiễn cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm, xác thực tính đúng đắn, phù hợp của tư tưởng Hồ Chí Minh và bản lĩnh chính trị của Người.
Giai đoạn từ năm 1941 đến trước Cách mạng Tháng Tám 1945: đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc triển khai thực hiện những hình thức tiền thân của nhà nước và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam. Mặt trận Việt Minh, các Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh, liên tỉnh và Chương trình Việt Minh chính là những hình thức tiền thân của Nhà nước và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam, đánh dấu sự hiện thực hóa và thêm một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của mô hình nhà nước và pháp luật Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chuẩn bị ròng rã trong hơn 30 năm hoạt động cách mạng (1911 - 1945).
Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1969: đây là giai đoạn tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật được bổ sung và phát triển gắn cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới; với sự chỉ đạo trực tiếp của Người trong 21 năm liên tục giữ cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập do Người trực tiếp soạn thảo đã tuyên bố với thế giới việc thành lập chế độ nhà nước và pháp luật dân chủ ở Việt Nam - là văn kiện chính trị, pháp lý thể hiện đậm nét tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật Việt Nam.
Thực hiện quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp ký ban hành các văn bản chỉ đạo xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 1946; tổ chức Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp năm 1946 và Luật Lao động, hai đạo luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây chính là sự thể hiện bước phát triển mới của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước, thiết lập một trật tự xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao... Năm 1957, Người ký ban hành các đạo luật quy định về chế độ báo chí; về quyền tự do hội họp, quyền lập hội; quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Người, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 1959 cùng các đạo luật quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Với các đạo luật quan trọng đó, tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Trong điều kiện miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, Quốc hội có thể họp đúng định kỳ để tập trung xây dựng pháp luật, từ năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh không trực tiếp ký ban hành sắc lệnh, song tư tưởng về nhà nước và pháp luật của Người đã trở thành quan điểm chỉ đạo, phương châm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là quan điểm về Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; là quan điểm về Quốc hội, cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước với nhiệm vụ cao cả “Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”; là quan điểm về Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất với bộ máy trong sạch, liêm khiết để sao cho “Đạo nghĩa là chính sách của Chính phủ đối với dân chúng... Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết”. Đó là quan điểm về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp “Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì tốt hơn”; quan điểm nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”. Đó là quan điểm về đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải là: “Những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong đấu tranh; những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng…; những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn…; những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”...
Có thể khẳng định rằng, hình thành từ đòi hỏi của lịch sử, khi dân tộc Việt Nam còn trong đêm trường nô lệ; phát triển gắn với thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội phong phú trên trường quốc tế đầy biến cố và phức tạp của thế kỷ XX; được bổ sung và hoàn thiện gắn với thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là sự lựa chọn đúng đắn và sáng suốt mô hình nhà nước và pháp luật phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phản ánh xu thế phát triển phù hợp của những tư tưởng chính trị - pháp lý tiến bộ của nhân loại; là nền tảng tư tưởng chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật vào xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân. Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là để thực hiện đúng tinh thần Người đã căn dặn: Học để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phụng sự giai cấp và nhân loại.
Tiếp tục nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trước hết cần hướng vào phục vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Văn kiện các Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, X, XI và XII của Đảng đều nhấn mạnh mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương; về cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Không chỉ là kết quả tích cực về hoàn thiện thể chế; mà hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta được nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế ghi nhận; chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện; vị thế và uy tín của đất nước ta, nhân dân ta và Đảng, Nhà nước ta ngày càng được nâng cao, đúng như nhận định của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Ngay cả trong những tình huống bất thường xã hội như đại dịch COVID-19, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; sự quản lý kịp thời, có hiệu quả của Nhà nước; sự vào cuộc với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận xã hội, Việt Nam đã được thế giới ghi nhận là một trong số ít quốc gia điển hình về hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội trong phòng, chống đại dịch toàn cầu COVID-19.
Thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật gắn với triển khai các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương khóa XII và dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; với đánh giá toàn diện, khách quan những khó khăn, thuận lợi trong lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước để quán triệt, nhận thức sâu sắc hơn nữa tư tưởng của Người về Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải vì nhân dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước phải bắt nguồn từ nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, bộ máy nhà nước thực sự gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đảm bảo thực hiện trên thực tế nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Cần tập trung hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong mối quan hệ tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; trong đó cần hướng vào trọng tâm là hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước; gắn kết chặt chẽ cải cách hành chính với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương theo quy định của Hiến pháp, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương; quan tâm hơn nữa đến công tác tổ chức và cán bộ nhà nước, trước mắt là chuẩn bị thật tốt công tác nhân sự của đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đó cũng là tinh thần và trách nhiệm, sự chuẩn bị tốt của Đảng và Nhà nước về công tác nhân sự để giới thiệu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026.
Đồng thời, để thực hiện có hiệu quả quan điểm chỉ đạo của Đảng về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trực tiếp là Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, chúng ta cần nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để “… làm rõ những vấn đề bổ sung, phát triển;… cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…”.
Qua 75 năm xây dựng và phát triển của Nhà nước, đặc biệt là từ đổi mới đến nay, chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật tương đối ổn định, đồng bộ, thống nhất, có sự gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện các chỉ đạo, chủ trương của Đảng về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng pháp lý bảo đảm quyền tự do kinh doanh, các quyền về an sinh xã hội của công dân, cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư và phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm quyền, lợi ích của người dân và doanh nghiệp; ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội...
Chúng ta cũng đã ban hành các văn bản ở tầm chiến lược về cải cách tư pháp, cải cách hành chính; chủ trương tinh gọn bộ máy nhà nước và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, chuyển hướng chiến lược từ ưu tiên cho hoạt động xây dựng pháp luật sang ưu tiên tập trung hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần thượng tôn pháp luật.
Trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ nhà nước, Nhà nước ta đã chú trọng nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, phân định phạm vi, trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta; chú trọng cơ chế và điều kiện đảm bảo nâng cao trình độ của cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, có phẩm chất chính trị, am hiểu pháp luật và kiến thức xã hội, có thể tham gia làm việc tại các tổ chức khu vực và quốc tế, các thiết chế tài phán quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tuy nhiên, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo lập hệ thống thể chế đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đến nay về cơ bản vẫn chưa đạt mục đích đề ra cả về số lượng và chất lượng. Có lý do từ cơ chế xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật chưa thực sự khoa học, đặc biệt cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dự án pháp luật dẫn đến tình trạng cơ quan chủ trì hướng nhiều vào bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, chưa thật sự vì lợi ích chung của nhân dân. Việc đảm bảo sự tham gia ý kiến rộng rãi của các tổ chức và cá nhân, cơ chế thu hút chuyên gia giỏi và phát huy trí tuệ của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật còn bất cập, khiến cho nhiều văn bản pháp luật chưa thực sự “bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động”, thậm chí còn thể hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm, cục bộ” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XII) đã chỉ ra. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn nặng về tính phong trào, hiệu quả chưa cao; thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.
Do đó, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Trước hết, cần ưu tiên các dự án luật cụ thể hóa trực tiếp các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, bảo đảm cụ thể hóa đầy đủ nội dung phân cấp, phân quyền trong các đạo luật theo tinh thần của Hiến pháp và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền đã được quy định tại Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương; tập trung hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội; pháp luật về quốc phòng, an ninh; pháp luật về hội nhập quốc tế.
Trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ nhà nước, cần thực hiện quyết liệt, nghiêm túc việc sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy nhà nước theo chủ trương, định hướng của Đảng; đẩy nhanh quá trình cụ thể hóa chỉ đạo, định hướng trong các văn bản của Đảng về sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước và tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành các văn bản quy phạm pháp luật để tạo lập cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho việc triển khai thực hiện. Tăng cường phân quyền, phân cấp giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương; giảm đầu mối trung gian trong các tổ chức, thực hiện trên phạm vi rộng mô hình tổ chức liên tỉnh, liên huyện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện sáp nhập, hợp nhất các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã không đủ tiêu chuẩn điều kiện. Chúng ta cũng cần có những giải pháp đồng bộ để có đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật “… có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”(2) để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật không chỉ là nền tảng tư tưởng chỉ đạo công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống pháp luật Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; mà trong một chừng mực nhất định, tư tưởng đó còn là một phần văn minh pháp lý của nhân loại, thể hiện qua việc Chính phủ các nước Myanmar và Inđônêxia đã trao tặng Người danh hiệu tiến sĩ luật học và được thế giới thừa nhận: “Các dân tộc chối từ con đường đau khổ của chủ nghĩa tư bản, có thể nghiên cứu để tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh một hướng đi thích hợp cho sự lựa chọn của mình”(3).
-------------------------------------------
Ghi chú:
(1) Đỗ Quang Hưng, Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Hà Nội.1999, tr.31-34.
(2) Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Nguồn: http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Mot-so-van-de-can-duoc-dac-biet-quan-tam-trong-cong-tac-chuan-bi-nhan-su-Dai-hoi-XIII-cua-Dang/394085.vgp.
(3) UNESCO - Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nôi. 1990, tr.43-44.
Lê Vĩnh Tân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Nhà nước và cách mạng
02:21 |Nhà nước và cách mạng
I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Lênin có nhiều tác phẩm phát triển học thuyết về nhà nước của Mác như: Tai họa sắp đến và những phương pháp ngăn ngừa tai họa đó; Những người Bônsêvích sẽ giữ được chính quyền hay không?; Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết; cách mạng vô sản và tên phản bội Causky; Bàn về Nhà nước, Kinh tế chính trị trong thời kỳ chuyên chính vô sản; Thà ít mà tốt; nhưng tác phẩm Nhà nước và cách mạng là tác phẩm chủ yếu nhất, tiêu biểu nhất. Đây là toàn bộ lý luận về nhà nước, những quan điểm về một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới của Lênin.
Tác phẩm này được viết ra trong hoàn cảnh trước ngày nổ ra Cách mạng Tháng Mười (từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1917). Để tránh sự bắt bớ của Chính phủ lâm thời lúc bấy giờ, Lênin phải ẩn náu trong nhà một người công nhân ở ga Rađơlít trên biên giới Nga - Phần Lan, về sau lại ẩn náu trong túp lều tranh phía sau hồ Rađơlít để hoạt động và viết tác phẩm này.
Sống trong hoàn cảnh bí mật, Lênin không một phút nào ngừng hoạt động cách mạng, Người vẫn giữ mối liên hệ với Trung ương Đảng. Thời gian ở đây, Lênin viết thêm 60 bài báo, sách và thư từ. Trong số đó có tác phẩm Nhà nước và cách mạng nổi tiếng, nó được viết ra như có sự hối thúc của thời cuộc, như dành riêng cho giai cấp công nhân để giành lấy chính quyền.
Trong tác phẩm này, Lênin không những đã khôi phục được quan điểm của Mác và Ăngghen về nhà nước mà còn phát triển một bước học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước và chuyên chính vô sản. Sau đó không lâu, Lênin có ý muốn viết tiếp phần thứ hai của tác phẩm này - một bài tổng kết những kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Nga năm 1905 và năm 1917; tổng hợp lại những kinh nghiệm mới của chính quyền Xô viết để tiếp tục phát huy và làm phong phú thêm học thuyết về nhà nước của mình. Rất tiếc, Lênin chưa kịp làm công việc đó thì Người đã từ trần. Đây là một thiệt thòi lớn cho nhân loại, cho những nước đi theo con đường của Lênin.
Vì sao trong hoàn cảnh căng thẳng như vậy mà Lênin vẫn quyết định viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng ?
Có ba lý do:
Một là, trong lời tựa lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, Lênin cũng đã chỉ rõ: “Hiện nay, vấn đề nhà nước có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt về phương diện lý luận cũng như về phương diện chính trị - thực tiễn”.
Theo Lênin, vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp 1848 - 1851 trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapác đã viết: Các chính Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi việc đoạt lấy tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến thắng.
- Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì sức mạnh của đảng được thực hiện thông qua nhà nước, đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội.
- Lênin dự đoán được cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga nhất định sẽ thành công, chính quyền Xô viết sẽ về tay công nông. Để giúp giai cấp vô sản hiểu về nhà nước, biết cách quản lý nhà nước của mình, Người viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
Hai là, trong thời điểm này (1917), chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - chủ nghĩa tư bản phân chia thị trường, xâm chiếm lãnh thổ thuộc địa và chính chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản căng thẳng và sâu sắc cực độ. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) nổ ra hòng phân chia thế giới và dập tắt phong trào cách mạng của công nhân các nước, nhưng kết quả thì ngược lại. Cuộc chiến tranh này đã tập trung tất cả mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản (mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản, giữa chủ nghĩa đế quốc với nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc) đã làm tăng nhanh và sâu sắc thêm quá trình biến chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (chủ nghĩa tư bản lũng đoạn) thành chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước (chủ nghĩa đế quốc). Đồng thời đẩy nhanh thêm những tai họa chưa từng có và làm tăng thêm tinh thần cách mạng của nhân dân.
Kết quả là đẩy cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thêm nhanh và thuận lợi:
- Phong trào cách mạng vô sản thế giới phát triển rầm rộ.
- Thời cơ giai cấp vô sản giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản đã chín muồi.
- Vấn đề giai cấp vô sản và quan hệ đối với nhà nước được đặt ra.
- Việc giai cấp vô sản trực tiếp tổ chức vũ trang và cuộc cách mạng vô sản giành chính quyền bằng bạo lực đã trở thành vấn đề hành động thực tế trước mắt.
Lênin khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản. Vì vậy, vấn đề nhà nước được đặt ra một cách cấp bách. Tác phẩm Nhà nước và cách mạng chính là sự chuẩn bị lý luận về nhà nước và cách mạng cho giai cấp vô sản giành chính quyền và nắm lấy chính quyền, là cương lĩnh xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản, vũ trang về mặt lý luận cho giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng Nga, làm cho những hoạt động khởi nghĩa vũ trang có sự chỉ đạo lý luận mácxít.
Ba là, viết Nhà nước và cách mạng, Lênin muốn đập tan luận điệu của bọn cơ hội ở Quốc tế II (điển hình là Bécstanh và Causky), mưu toan chống lại những nguyên lý về nhà nước của Mác, chống lại việc xây dựng phương pháp cách mạng để thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản. Bọn cơ hội, xét lại ở Quốc tế II ra sức bảo vệ lý luận phát triển, bảo vệ hòa bình để chuyển từ chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Còn bọn vô chính phủ thì tìm cách chống lại bất kỳ một nhà nước nào, kể cả nhà nước chuyên chính vô sản.
Trước tình hình đó, Lênin cho rằng, nếu không đấu tranh kiên quyết chống những thiên biến cơ hội chủ nghĩa về vấn đề nhà nước thì không thể đấu tranh giải phóng quần chúng cần lao khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản nói chung. Những ý tưởng đó đã thúc giục Người bắt tay viết Nhà nước và cách mạng.
Vì sao Lênin lấy tên tác phẩm là Nhà nước và cách mạng?
Tên tác phẩm Nhà nước và cách mạng nói lên rằng, để có một nhà nước vô sản - nhà nước kiểu mới, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động do họ làm chủ - thì chỉ có một con đường là dùng bạo lực cách mạng, mọi phương pháp khác đều là cải lương cơ hội.
Vấn đề nhà nước của Lênin gắn liền với phương pháp bạo lực cách mạng.
II- Nội dung tác phẩm
Tác phẩm Nhà nước và cách mạng chia làm 6 chương, nội dung rất phong phú, được trình bày một cách hệ thống và sâu sắc.
- Chương 1: Xã hội có giai cấp và nhà nước.
- Chương 2: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm những năm 1848 - 1851.
- Chương 3: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm Công xã Pari 1871. Sự phân tích của Mác.
- Chương 4: Tiếp theo. Những lời giải thích bổ sung của Ăngghen.
- Chương 5: Những cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong.
- Chương 6: Bọn cơ hội chủ nghĩa tầm thường hóa chủ nghĩa Mác.
1. Bản chất giai cấp của nhà nước
Lênin vạch ra nguồn gốc giai cấp, xã hội của sự xuất hiện nhà nước.
- Không phải xã hội loài người xuất hiện là có nhà nước. Nhà nước là một phạm trù lịch sử nó chỉ xuất hiện trong xã hội có sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước, khi xã hội nguyên thủy tan rã, xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng không thể điều hòa được mới đẻ ra nhà nước. Trong những tổ chức thị tộc, bộ lạc của xã hội công xã nguyên thủy chưa có của riêng, không phân chia giai cấp, toàn thể thành viên trong xã hội bình đẳng. Người cầm đầu là do mọi thành viên cử ra và có trách nhiệm chăm sóc lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, trong xã hội và căn bản không cần thiết có một uy lực chính trị nào đặt lên trên xã hội, do đó Nhà nước cũng không có khả năng tồn tại.
Do lực lượng sản xuất phát triển, dần dần đẻ ra việc sử dụng của riêng và nô lệ, làm cho xã hội phân chia thành chủ nô và nô lệ, thành người giàu có và bần cùng, sự phân chia này đã phá vỡ quan hệ bình đẳng giúp đỡ nhau giữa mọi người trong xã hội dẫn tới quan hệ đối kháng giai cấp, mối liên hệ này ngày càng không thể điều hòa được, giai cấp thống trị (chủ nô) cần có một tổ chức quyền lực xã hội đặc biệt để chế ngự giai cấp bị áp bức (nô lệ) , tổ chức đó là nhà nước. Từ đây ta có thể thấy nhà nước là một sản phẩm lịch sử, ra đời theo sự xuất hiện giai cấp. Nhà nước là bộ máy đặc biệt để khống chế người khác và chỉ có thể xuất hiện trong xã hội phân chia giai cấp.
Lênin đưa ra khái niệm về nhà nước: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, là một cơ quan thống trị giai cấp, là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác; là một bộ máy cho phép một giai cấp này được áp bức một giai cấp khác.
Những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước. Bọn chúng nói bừa rằng, “Nhà nước là cái siêu giai cấp để duy trì trật tự xã hội”, là bộ máy “điều hòa” lợi ích của các giai cấp đối lập. Đây là điểm bất đồng giữa Lênin và bọn cơ hội.
Xem xét các nhà nước trong lịch sử, ta thấy:
- Nhà nước của chế độ nô lệ: Bọn chủ nô nắm lấy nhà nước để áp bức vô nhân đạo với nô lệ.
- Nhà nước của chế độ phong kiến: Bọn địa chủ nắm lấy nhà nước để áp bức vô nhân đạo với nông dân.
- Nhà nước của giai cấp tư sản: Giai cấp tư sản nắm lấy nhà nước để trấn áp giai cấp vô sản.
- Còn nhà nước vô sản công khai tuyên bố rằng: Nhiệm vụ thứ nhất của nó là trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ cho đến khi triệt để tiêu diệt chúng.
Như vậy, bọn cơ hội chủ nghĩa về mặt lý luận không thể phủ nhận được nhà nước là cơ quan thống trị giai cấp, cũng không chối cãi được mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được. Nhưng họ đã quên và tìm cách bỏ qua, xóa nhòa một điều là: nếu nhà nước là sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, nếu nhà nước là một lực lượng đặt trên xã hội và ngày càng trở nên xa lạ với xã hội, thì rõ ràng là việc giải phóng giai cấp bị áp bức không thể thực hiện được nếu không tiến hành một cuộc cách mạng bạo lực, mà cũng không thể thực hiện được nếu không thủ tiêu bộ máy chính quyền nhà nước do giai cấp thống trị tự dựng nên.
Bọn chúng không muốn cách mạng bạo lực, không muốn lật đổ bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, mà tiến hành bằng biện pháp cải lương trong điều kiện bảo tồn nó.
Theo Lênin, nhà nước không phải là bộ máy “duy trì trật tự xã hội” mà là “công cụ thống trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”, không phải là bộ máy “điều hòa giai cấp” mà là một bộ máy áp bức giai cấp, không phải là vật sở hữu của toàn dân mà chỉ có thể là vật sở hữu của một số người. Do đó nhà nước là không nhượng lại được, “không điều hòa được”.
Từ khi xã hội có giai cấp đến nay, người ta đều giành lấy giang sơn (nhà nước). Bản chất về nhà nước là chuyên chính về giai cấp.
2. Thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với nhà nước của giai cấp tư sản
Về nguyên tắc lêninnít, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa giành lấy chính quyền về tay mình, thì phải đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản. Lênin so sánh nhà nước của giai cấp tư sản và nhà nước của giai cấp vô sản như sau: Nhà nước của giai cấp vô sản là công cụ của tuyệt đại đa số người lao động trấn áp một thiểu số bọn bóc lột, là công cụ để xóa bỏ ách bóc lột và giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước của giai cấp tư sản là công cụ của một thiểu số bọn bóc lột trấn áp tuyệt đại đa số người lao động, là công cụ để bảo vệ và củng cố chế độ bóc lột này hay chế độ bóc lột khác.
Lênin chỉ ra rằng: Cần phải dùng bạo lực cách mạng, dùng cách mạng vô sản để xóa bỏ nhà nước của giai cấp tư sản, chứ không thể làm cho nó “tự tiêu vong”, còn đối với nhà nước của giai cấp vô sản, cần phải làm cho nó “tự tiêu vong” chứ không dùng bạo lực để xóa bỏ. Đó là cơ sở của toàn bộ học thuyết về nhà nước của Mác và Ăngghen.
Bọn vô chính phủ đã phủ nhận nhu cầu nhà nước của giai cấp vô sản lẫn lộn sự khác nhau về nguyên tắc giữa hai kiểu nhà nước. Bọn chúng chủ trương: bất cứ nhà nước nào cũng đều phải xóa bỏ bằng bạo lực Còn bọn cơ hội chủ trương đối với nhà nước tư sản để cho nó “tự tiêu vong”, chuyển nhượng hòa bình cho giai cấp vô sản hòng thủ tiêu cách mạng vô sản thủ tiêu chuyên chính vô sản, thực chất là thủ tiêu nhà nước vô sản.
Các giai cấp thống trị trong xã hội phân chia giai cấp bóc lột trong lịch sử thường bảo tồn, cải lương bộ máy nhà nước cũ đã giành được, làm cho nó hoàn bộ hơn để phục vụ cho giai cấp thống trị của bọn bóc lột mới. Vào cuối thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản Pháp từ chế độ phong kiến bước sang chủ nghĩa tư bản, nó vẫn sử dụng, bảo tồn bộ máy trấn áp trước kia để phục vụ cho mình. Nguyên nhân chính là xuất phát từ lợi ích giai cấp và yêu cầu giai cấp có tính chất bóc lột và tự tư tự lợi.
Thái độ của giai cấp vô sản đối với bộ máy nhà nước tư sản thì khác hẳn, họ cần phải đập tan, phá bỏ nhà nước tư sản, xây dựng lại bộ máy nhà nước mới, nhà nước vô sản không phải để phục vụ cho giai cấp bóc lột, mà để trấn áp, tiêu diệt giai cấp bóc lột.
Lênin tổng quát ý kiến của Mác qua những cuộc cách mạng 1848 - 1851 và 1871. Mác cho rằng: Nhiệm vụ của cách mạng sau này - tức là cách mạng vô sản - không phải là cải tiến về hình thức bộ máy nhà nước tư sản hoặc làm cho nó hoàn bộ hơn mà là đập tan bộ máy ấy.
3. Thực chất học thuyết nhà nước của chủ nghĩa Mác - chuyên chính vô sản
Chuyên chính vô sản là nội dung cơ bản của cách mạng vô sản, học thuyết chuyên chính vô sản là học thuyết chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thừa nhận hay không thừa nhận chuyên chính vô sản là ranh giới phân biệt giữa chú nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa cơ hội “tả” hoặc hữu.
Lênin đã kế thừa và phát triển một cách xuất sắc học thuyết của Mác - Ăngghen về chuyên chính vô sản. Nhà nước và cách mạng là tác phẩm thể hiện xuất sắc về học thuyết này.
Học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác có một lịch sử lâu dài và phong phú. Từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác – Ăngghen nêu rõ tư tưởng của chuyên chính vô sản là: Giai cấp vô sản phải giành quyền thống trị và chính trị . Sau khi trải qua cách mạng Pháp 1848 - 185l, Mác rút ra kết luận quan trọng là: nếu không dùng bạo lực đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản thì cách mạng vô sản không thể thắng lợi, chính quyền của giai cấp vô sản cũng không thể dựng lên được. Sau Công xã Pari 1871, Mác đặt ra vấn đề là: giai cấp vô sản sau khi đập tan bộ máy nhà nước tư sản, thì thay vào bằng hình thức nhà nước nào?
Năm 1875, trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, đã trình bày rõ một số vấn đề hết sức quan trọng về nhà nước và chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Đến thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản thì học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác đã bước sang một giai đoạn mới, Lênin không những khôi phục học thuyết của Mác - Ăngghen, đập tan mọi sự xuyên tạc của mọi chủ nghĩa cơ hội đối với học thuyết này đồng thời phát triển nó, đề ra và giải quyết một số vấn đề mới quan trọng.
Trong bức thư gửi Vâyđơmaye ngày 5 tháng 3 năm 1852, Mác cho rằng, điều mới mẻ mà Mác đã làm và đã chứng minh là:
- Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất.
- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
- Bản thân sự chuyên chính chỉ là bước quá độ tiến lên xóa bỏ mọi giai cấp và tiến lên một xã hội không có giai cấp.
Đối với luận điểm này, trong Nhà nước và cách mạng, Lênin trình bày rằng: kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là một người mácxít, chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến việc thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người mácxít.
Lênin đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội “tả” và hữu xuyên tạc chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản.
Lênin trình bày sự tất yếu và thực chất của chuyên chính vô sản, phát triển và làm phong phú thêm nguyên lý đó bằng những kinh nghiệm cách mạng mới:
- Phát triển thêm một bước về tính chất của chuyên chính vô sản: Chuyên chính vô sản là công cụ của cách mạng vô sản, là sự thống trị của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản. Khối công - nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản là một chính quyền mà nó không chia sẻ cho ai hết và trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của quần chúng.
- Phát triển tư tưởng về đội tiên phong của giai cấp vô sản tức là chính đảng của giai cấp vô sản: Đảng của giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo của chuyên chính vô sản lên chuyên chính vô sản tức là nhà nước của giai cấp vô sản cần phải có đảng lãnh đạo, đó là một trong những tư tưởng cơ bản của tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
Lênin chỉ rõ rằng: Trong cuộc đấu tranh cho chuyên chính vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải làm cho đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột. Nếu không có đảng lãnh đạo, thì giai cấp vô sản và tất cả nhân dân lao động không thể lật đổ giai cấp tư sản, không thể giành được thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội.
- Đã trình bày về các nhiệm vụ cơ bản của chuyên chính vô sản. Những nhiệm vụ cơ bản đó là:
+ Trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột đã bị đánh đổ và củng cố những thắng lợi của mình.
+ Xây dựng khối liên minh công - nông, giai cấp tư sản và giai cấp nửa vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
+ Sử dụng chính quyền vô sản để tổ chức chế độ xã hội chủ nghĩa, dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới.
4. Hình thức nhà nước của giai cấp vô sản
Hình thức nhà nước của giai cấp vô sản là nền chuyên chính vô sản cần áp dụng hình thức nhà nước nào để thực hiện nhiệm vụ lịch sử của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Do đó, hình thức nhà nước của giai cấp vô sản là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong Nhà nước và cách mạng, Lênin chỉ rõ rằng, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản sẽ xây dựng hình thức Xô viết của chuyên chính vô sản.
- Năm 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen cho rằng, giai cấp vô sản dựng lên quyền thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản và đặt ra vấn đề nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị.
- Đến thời kỳ cách mạng Pháp 1848 - l851 và đến trước Công xã Pari 1871, trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapác, Mác tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc cách mạng Pháp và nhận định rằng, từ nay về sau, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng cần phải tập trung mọi sức mạnh của mình để phá hủy, đập tan bộ máy nhà nước cũ.
- Thời kỳ Công xã Pari đến trước cách mạng Nga 1905 và tháng 2 năm 1917, hai ông tìm ra được mẫu hình thức kiểu nhà nước mới của giai cấp vô sản thay thế bộ máy nhà nước tư sản.
Thời kỳ 2 cuộc cách mạng Nga 1905 và tháng 2 năm 1917, Lênin đã tìm ra rằng, Xô viết là hình thức nhà nước mới của nhà nước vô sản. Xô viết là một hình thức nhà nước của giai cấp tư sản cao hơn và toàn bộ hơn Công xã Pari. Bắt đầu từ khi chính quyền Xô viết xuất hiện đã kết thúc thời đại cũ của chế độ đại nghị dân chủ tư sản, đã mở ra một chương mới của lịch sử toàn thế giới.
- Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, do điều kiện lịch sử mới, ở các nước dân chủ nhân dân lại xuất hiện một hình thức nhà nước mới khác của nhà nước vô sản - chính quyền dân chủ nhân dân. Chính quyền dân chủ nhân dân và Xô viết là hai hình thức chính quyền giống nhau - chính quyền liên minh giữa giai cấp công nhân với những người lao động. Sự phát triển này làm phong phú thêm học thuyết về hình thức nhà nước vô sản của Lênin.
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, khi trình bày hình thức nhà nước của chuyên chính vô sản, Lênin còn nêu nguyên tắc tổ chức của hình thức nhà nước vô sản. Nguyên tắc tổ chức của hình thức nhà nước vô sản là chế độ tập trung dân chủ tập trung dân chủ vừa là nguyên tắc tổ chức của một chính đảng, vừa là nguyên tắc tổ chức của một hình thức nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo. Hai loại hình thức nhà nước Xô viết và dân chủ nhân dân đều tuân thủ nguyên tắc này.
5. Cơ sở kinh tế của nhà nước tiêu vong, hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin định nghĩa một cách khoa học, toàn diện và sâu sắc vấn đề này và khẳng định : Nhà nước sẽ hoàn toàn tiêu vong trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở kinh tế của nhà nước tiêu vong là vấn đề liên hệ giữa nhà nước tiêu vong và chủ nghĩa cộng sản. Đây là một trong những nội dung chủ yếu của tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
Khi trình bày cơ sở kinh tế của nhà nước tiêu vong, Lênin phân tích vấn đề hai giai đoạn chín muồi về kinh tế của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hai giai đoạn của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa; nó là một phương thức sản xuất đông nhất có cơ sở chung và những đặc trưng chung:
- Tư liệu sản xuất thuộc về sở hữu công cộng.
- Không có người bóc lột người.
- Nền kinh tế quốc doanh phát triển theo kế hoạch.
Nhưng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có sự khác nhau:
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội vừa thoát thai ra trong xã hội tư bản chủ nghĩa do đó còn mang nhiều vết tích, tàn dư của chế độ cũ. Phân phối theo phương thức “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
- Chủ nghĩa cộng sản thì nguyên tắc phát triển trên sẽ không còn, sẽ không còn sự bất bình đẳng trong lao động và phân phối.
III- Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm
- Tác phẩm Nhà nước và cách mạng có ý nghĩa quan trọng về mặt quốc tế, tác phẩm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của phong trào cách mạng vô sản thế giới. Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng để chuẩn bị về lý luận về nhà nước và cách mạng cho giai cấp vô sản giành chính quyền và giữ chính quyền.
- Tác phẩm Nhà nước và cách mạng có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Nga.
Nước Nga của chế độ chuyên chế Sa hoàng là nơi tập trung tất cả những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc thế giới, là trung tâm của phong trào cách mạng thế giới từ đầu thế kỷ XX trở đi. Trong tình hình như vậy, giai cấp vô sản và chính Đảng của nó đã lợi dụng những nhược điểm của chủ nghĩa tư bản để phá vỡ mặt trận đế quốc chủ nghĩa, lật đổ chế độ Sa hoàng và thành lập Xô viết đại biểu.
Chính trong lúc giai cấp vô sản đứng trước nhiệm vụ trực tiếp là giành lấy chính quyền nhà nước, chính trong đêm trước của Cách mạng Tháng Mười, Lênin dựa vào những kinh nghiệm của cách mạng thế giới, đặc biệt dựa vào việc nghiên cứu chính quyền Xô viết trong hai lần cách mạng, đã viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng làm cương lĩnh cho cuộc đấu tranh thành lập nhà nước vô sản, vũ trang về mặt lý luận cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cho những hành động khởi nghĩa vũ trang có sự chỉ đạo lý luận mácxít, bảo đảm cho sự thắng lợi của chuyên chính vô sản.
- Tác phẩm Nhà nước và cách mạng là cương lĩnh cho cuộc đấu tranh thành lập nhà nước vô sản, là kim chỉ nam cho hành động của đảng vô sản các nước trong việc giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản và xây dựng chính quyền nhà nước của mình.
- Tác phẩm Nhà nước và cách mạng đã góp phần đập tan chủ nghĩa cơ hội “tả” và “hữu”, chủ nghĩa vô chính phủ lúc bấy giờ, ngăn ngừa kịp thời những tư tưởng không mácxít về nhà nước. Từ đó làm rõ thêm và phát triển lý luận về nhà nước của Mác như:
+ Hình thức nhà nước chuyên chính vô sản.
+ Vấn đề chuyên chính vô sản là liên minh công - nông dưới sự lãnh của giai cấp công nhân.
+ Vấn đề chế độ dân chủ của giai cấp vô sản là chế độ dân chủ kiểu cao nhất trong xã hội có giai cấp.
Tác phẩm Nhà nước và cách mạng đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Đảng ta đã và đang vận dụng một cách đúng đắn sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc xây dựng một nhà nước pháp quyền Việt Nam, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quan điểm của V.I. Lê-nin về nhà nước kiểu mới và ý nghĩa đối với Việt Nam
02:20 |
Quan điểm của V.I. Lê-nin về nhà nước kiểu mới và ý nghĩa đối với Việt Nam
PGS, TS. BÙI THỊ NGỌC LAN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TCCS - Trong hệ thống lý luận của mình, vấn đề nhà nước luôn được V.I. Lê-nin đặc biệt coi trọng, vì đó là một trong những vấn đề cốt tử, không chỉ khẳng định vị trí thống trị của giai cấp cầm quyền, mà còn là trụ cột của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ xã hội mới.
Quan điểm của V.I. Lê-nin về nhà nước kiểu mới
Trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về nhà nước và xuất phát từ thực trạng của bộ máy nhà nước Xô-viết sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, V.I. Lê-nin đã đưa ra quan điểm về nhà nước kiểu mới, được biểu hiện tập trung như sau:
Một là, làm rõ tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước kiểu mới.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, “trước tình hình xuyên tạc chủ nghĩa Mác trở thành một điều phổ biến”, trong đó bao gồm cả việc phủ nhận, xuyên tạc học thuyết Mác về vấn đề nhà nước, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ, “khôi phục học thuyết chân chính của Mác về nhà nước”(1), đồng thời bổ sung, phát triển nhiều luận điểm có giá trị lý luận và thực tiễn trên vấn đề này.
Trước hết, V.I. Lê-nin tiếp tục khẳng định sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan, “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”(2). Do vậy, V.I. Lê-nin cho rằng, lập trường quan điểm về nhà nước chính là một trong những tiêu chí để phân biệt người cộng sản chân chính và kẻ cơ hội.
Theo V.I. Lê-nin, nhà nước ra đời gắn với xã hội phân chia giai cấp và là sản phẩm của xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định. Khoảng 5 năm sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhà nước Xô-viết đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, thậm chí là “rất tồi tệ”. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, hoạt động trì trệ, bảo thủ, không hiệu quả, nhiều chủ trương, chính sách đưa ra không vững chắc, không kiên định và “khó hiểu..., hấp tấp”, những yếu tố cần thiết để xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa còn hết sức ít ỏi. Số lượng cán bộ nhà nước tăng nhanh trong khi chất lượng không bảo đảm, thể hiện ở năng lực tổ chức, quản lý rất thấp, thiếu những hiểu biết cần thiết trong công tác quản lý, trong việc triển khai những nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước; phong cách làm việc cũ, thiếu tính chuyên nghiệp, “thiếu óc sáng tạo để thực hiện một cuộc cải cách hành chính...”(3). Nghiêm túc đánh giá thực trạng yếu kém của bộ máy nhà nước, V.I. Lê-nin cho rằng: “Trừ Bộ dân ủy ngoại giao ra, bộ máy nhà nước của chúng ta, trong một mức độ rất lớn, vẫn còn là một tàn dư của thời trước,... Bộ máy ấy chỉ mới được tô điểm sơ qua bên ngoài; ngoài ra, nó vẫn là điển hình thật sự của bộ máy nhà nước cũ”(4).
Để khắc phục tình trạng nói trên vì vận mệnh của chính quyền Xô-viết, của chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin đã khẳng định tính cấp thiết phải có một nhà nước kiểu mới - đó là nhà nước khác về bản chất so với các nhà nước cũ. Bản chất của nhà nước kiểu mới phải thể hiện rõ tính nhân văn sâu sắc, tính ưu việt vượt trội của chế độ xã hội mới so với các nhà nước trước đó, phải thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu tối thượng để hoạt động và phục vụ. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Bây giờ chúng ta sẽ xây dựng, trên một miếng đất đã dọn sạch những di vật đổ nát của lịch sử, tòa lâu đài xã hội xã hội chủ nghĩa, đồ sộ và rực rỡ; sẽ thiết lập nên một kiểu nhà nước mới chưa từng thấy trong lịch sử, một nhà nước thể theo ý chí của cách mạng mà có nhiệm vụ quét sạch khỏi mặt đất mọi sự bóc lột, mọi bạo lực, mọi sự nô dịch”(5).
Với tư duy biện chứng, V.I. Lê-nin cho rằng, nhà nước kiểu mới mang bản chất mới, nhưng không phải là phủ nhận sạch trơn những thành tựu đã đạt được của nhà nước tư sản cũ. Trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn cần đến nhà nước tư sản với tư cách là tiếp thu, kế thừa những cách thức tổ chức, quản lý của nhà nước pháp quyền tư sản. Ông viết: “Trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản!”(6).
Theo V.I. Lê-nin, để có được nhà nước kiểu mới thì công cuộc “đổi mới bộ máy nhà nước” trở thành vấn đề cốt tử của sự nghiệp cách mạng, dẫu biết rằng sự đổi mới bộ máy ấy là một vấn đề rất khó khăn, còn lâu mới được giải quyết, nhưng đó cũng chính là một vấn đề “cực kỳ cấp bách”, bởi vì, nếu vấn đề này không giải quyết được thì sẽ là nguy cơ rất lớn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự chống phá của các thế lực thù địch và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội sẽ trở nên xa vời. Ông cho rằng, nguyên nhân của tình trạng này một phần là do bắt nguồn từ “quá khứ”, “quá khứ này tuy đã bị lật đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt”; do chính quyền Xô-viết còn quá non trẻ, lại phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách và sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài nên vấn đề “cải tiến bộ máy nhà nước” “có quá ít thì giờ để nghĩ đến”; do công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ cốt cán cấp chiến lược, chưa được đầu tư thỏa đáng nên đội ngũ này còn thiếu kinh nghiệm trong công tác tổ chức, quản lý nhà nước, cộng với tâm lý kiêu ngạo, ảo tưởng, khinh suất khi cho rằng cách mạng đã thành công thì nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng hình thành. Phê phán một cách gay gắt tư tưởng này, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Điều tai hại nhất là tưởng rằng chúng ta biết được một tý như thế là đủ rồi, hoặc tưởng rằng chúng ta đã có được một số yếu tố khá lớn để xây dựng được một bộ máy thật sự mới và thật sự xứng đáng với danh hiệu là bộ máy xã hội chủ nghĩa, bộ máy xô-viết, v.v...”(7).
Tầm quan trọng và tính cấp bách phải xây dựng nhà nước kiểu mới còn xuất phát từ tầm vóc của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Thắng lợi của cuộc cách mạng này không chỉ là thắng lợi của riêng nước Nga Xô-viết, mà đồng thời còn là thắng lợi chung của cách mạng thế giới, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Do vậy, theo V.I. Lê-nin, nhiệm vụ khẩn thiết đặt ra là phải bảo vệ những thành quả cách mạng đó. Muốn thực hiện được nhiệm vụ trọng đại này, bên cạnh một tổ chức đảng vững mạnh, cần phải có một nhà nước kiểu mới - đó là nhà nước chuyên chính vô sản (nhà nước xã hội chủ nghĩa) với hai chức năng cơ bản: chức năng giai cấp và chức năng xã hội (hay còn gọi là chức năng trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới). Chức năng giai cấp (trấn áp) phải được bảo đảm nhằm đè bẹp sự phản kháng của giai cấp bóc lột tuy đã bị lật đổ nhưng vẫn còn tiềm lực, chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch, phản động bên trong và bên ngoài để bảo vệ những thành quả cách mạng. Chức năng tổ chức xây dựng được thực hiện để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Các chức năng của nhà nước sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể, trong đó chức năng xã hội sẽ ngày càng trở nên chính yếu, đa dạng và là chức năng căn bản, lâu dài. Vì vậy, việc cải tổ, xây dựng một nhà nước kiểu mới đủ năng lực, hoạt động hiệu quả trở thành vấn đề “rất khẩn thiết” đối với chính quyền công nông và chế độ xô-viết.
Hai là, nêu bật những nguyên tắc và giải pháp nhằm xây dựng nhà nước kiểu mới xã hội chủ nghĩa.
Để khắc phục những yếu kém của bộ máy nhà nước và xây dựng nhà nước mới xã hội chủ nghĩa, theo V.I. Lê-nin, quá trình cải cách bộ máy nhà nước cần phải bảo đảm những vấn đề mang tính nguyên tắc như sau:
Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước. Đảng phải là một đảng kiểu mới, một đảng chân chính là vấn đề mang tính nguyên tắc vì Nhà nước chỉ là công cụ, là thiết chế để tổ chức triển khai thực hiện đường lối chính trị, những chủ trương, chính sách của Đảng cầm quyền. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm mọi hoạt động của Nhà nước phải theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội và nhằm phục vụ lợi ích tối thượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bởi lẽ “nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”(8).
Lựa chọn khâu đột phá, trọng điểm và bảo đảm nguyên tắc “thà ít mà tốt”. Với tầm nhìn chiến lược, V.I. Lê-nin đã lựa chọn tập trung ưu tiên đổi mới hoạt động của các cơ quan đầu não của bộ máy nhà nước. Thậm chí, táo bạo hơn, V.I. Lê-nin đã đưa ra đề xuất kết hợp linh hoạt, độc đáo giữa một cơ quan đảng và một cơ quan nhà nước do tính chất và nhiệm vụ của chúng có nhiều điểm tương đồng - đó là hợp nhất Bộ dân ủy thanh tra công nông (thuộc cơ quan chính phủ) với Ban kiểm tra trung ương (thuộc cơ quan đảng). Việc hợp nhất này là cần thiết để tránh sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thực hiện tinh giản bộ máy và suy cho cùng là vì chính “lợi ích của công việc đòi hỏi phải làm như thế”. V.I. Lê-nin viết: “... Tại sao... lại không thừa nhận là có thể hợp nhất một cách độc đáo bộ máy kiểm tra của đảng với bộ máy kiểm tra của chính quyền? Về phần tôi, tôi thấy là làm như vậy không có trở ngại gì cả. Hơn nữa, tôi tin rằng sự hợp nhất ấy là điều đảm bảo duy nhất cho một hoạt động có kết quả”(9).
Việc đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước, nhất là ở các cơ quan đầu não phải bảo đảm nguyên tắc “thà ít mà tốt”, đó phải là những cơ quan “thật sự gương mẫu”, trong sạch. Đội ngũ cán bộ của các cơ quan này phải được tuyển chọn kỹ lưỡng theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, bảo đảm cả về số lượng và chất lượng; phải có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, đồng thời được trang bị lý luận cách mạng và nhất là có kiến thức vững vàng, chuyên sâu về quản lý nhà nước; “những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào và không lùi bước trước bất cứ một cuộc đấu tranh nào để đạt được mục đích...”(10).
Từ những vấn đề mang tính nguyên tắc đó, V.I. Lê-nin đã đề xuất một hệ các giải pháp cần thực hiện nhằm sớm xây dựng nhà nước kiểu mới trong sạch, hiệu quả, bao gồm:
Xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước kiểu mới phải là nhà nước pháp quyền, điều tiết các mối quan hệ xã hội và quản lý xã hội thông qua một hệ thống pháp luật khoa học, hiện đại. Do vậy, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm hoạt động của Nhà nước và thực thi dân chủ của nhân dân là một tất yếu khách quan và là một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra. V.I. Lê-nin viết: “Nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, người ta sẽ tức khắc có thể làm việc cho xã hội mà không cần phải có tiêu chuẩn pháp quyền nào cả”(11).
Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Rà soát, kiểm tra lại các cơ quan nhà nước theo yêu cầu phải hoạt động “phù hợp với trình độ khoa học hiện đại”; xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; làm tốt công tác giám sát, kiểm soát quyền lực, đặc biệt là ở những vị trí cấp cao nhất, cấp chiến lược, cả trong Đảng lẫn trong bộ máy nhà nước nhằm khắc chế tình trạng độc đoán, chuyên quyền, hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm những điều có hại cho tổ chức, cho xã hội. V.I. Lê-nin viết: “Và những ủy viên Ban kiểm tra trung ương có nhiệm vụ tham dự, với một số lượng nhất định, vào mỗi phiên họp của Bộ chính trị, sẽ phải là một nhóm cố kết, nó, “không được vị nể cá nhân”, phải giữ gìn sao cho không một quyền uy nào của Tổng bí thư hay là của một ủy viên nào trong Ban chấp hành trung ương có thể ngăn cản mình chất vấn, kiểm tra các hồ sơ, và nói chung, nắm được tình hình hết sức rõ ràng và xử lý mọi việc hết sức đúng đắn”(12).
Để kiểm soát tốt quyền lực, cần thực hành dân chủ rộng rãi, thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như của cán bộ nhà nước. Chỉ khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì Nhà nước mới có thể quản lý được xã hội phù hợp với quy luật phục vụ lợi ích của nhân dân, đồng thời mới thể hiện đúng bản chất của nhà nước mới xã hội chủ nghĩa. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Nếu quyền lực chính trị trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy”(13).
Bộ máy nhà nước hoạt động có thực sự hiệu quả hay không, có trong sạch, vững mạnh hay không, điều đó phụ thuộc trước hết vào những con người trong tổ chức. Do vậy, xây dựng nhà nước mới phải bắt đầu từ công việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên. “Nhiệm vụ của chúng ta là qua thí nghiệm mà thu hút nhiều chuyên gia, rồi bồi dưỡng lớp cán bộ lãnh đạo mới, lớp chuyên gia mới để họ học cho bằng được công tác quản lý, một công tác mới, hết sức khó khăn, phức tạp, để thay thế chuyên gia cũ”(14). Muốn vậy, theo V.I. Lê-nin, cần thực hiện tốt tất cả các khâu của quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đồng thời, phải tuyển chọn đúng người vào các tổ chức cao nhất của bộ máy nhà nước theo các tiêu chuẩn sau: uy tín cao, được nhiều đảng viên giới thiệu; phải qua sát hạch để kiểm tra trình độ lý luận về nhà nước, những nguyên tắc của khoa học quản lý và khả năng phối hợp cao với đồng nghiệp trong công tác.
Mặt khác, để phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phải phát triển giáo dục, soạn thảo chương trình, sách giáo khoa và mạnh dạn cử cán bộ có tài, tâm huyết, có bản lĩnh chính trị đi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài - đó sẽ là những nhân liệu tốt của bộ máy nhà nước và để xây dựng chế độ xã hội mới trên thực tế. V.I. Lê-nin nhấn mạnh: xây dựng chủ nghĩa cộng sản “... chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi”(15).
Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Từ thực tế căn bệnh quan liêu đã trở nên trầm kha trong hoạt động của một số tổ chức đảng và bộ máy nhà nước - V.I. Lê-nin gọi tình trạng đó là “vũng lầy quan liêu chủ nghĩa dơ bẩn”; đồng thời, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tự chuyển hóa về lập trường tư tưởng, lợi dụng cơ hội “đục nước béo cò”, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “... là do những phần tử quan liêu đáng yêu của chúng ta cố ý làm lây sang chúng ta, với hy vọng là có nhiều dịp buông câu trong đám nước đục... Và họ đã câu được trong đám nước đục ấy đến mức chỉ có những người thật sự đui mù trong chúng ta mới không thấy được là họ đã câu như vậy trên một quy mô rộng lớn tới chừng nào”(16). Bởi vậy, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống quan liêu và tham nhũng trở thành những giải pháp cấp bách nhằm vừa bảo vệ nhà nước xô-viết non trẻ, vừa xây dựng một nhà nước kiểu mới, gắn với công tác xây dựng Đảng.
Ý nghĩa đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề nhà nước, với gần 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy nhà nước ta đã có nhiều đổi mới về cấu trúc theo hướng tinh gọn và hoạt động hiệu quả hơn. Bản chất nhân văn, nhân đạo, tinh thần vì nhân dân, phục vụ lợi ích nhân dân của Nhà nước ta đang ngày càng được đề cao. Nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đáp ứng được nhu cầu, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, do vậy đã nhận được sự ủng hộ, tin tưởng và đồng thuận của nhân dân. Có thể khẳng định, chưa có nhiệm kỳ đại hội nào của Đảng mà vấn đề chỉnh đốn, xây dựng Đảng và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta lại được coi trọng và được triển khai thực hiện quyết liệt như nhiệm kỳ Đại hội XII.
Để xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, những chuyển động mới trong lãnh đạo, quản lý của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong công tác phòng, chống tham nhũng những năm qua đã chứng tỏ quyết tâm cắt bỏ những “ung nhọt” đang tàn phá bộ máy nhà nước, làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước. Quá trình thanh lọc và thi hành kỷ luật những kẻ thoái hóa, biến chất trong các tổ chức đảng và nhà nước được triển khai quyết liệt và đã có tác động lớn đến toàn xã hội, từ đó góp phần quan trọng vào việc khôi phục và củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Những chuyển động của bộ máy nhà nước, nhất là những chỉ đạo của Chính phủ trong việc cải cách hành chính, giảm các khâu trung gian, rút ngắn thời gian giải quyết công việc... đã góp phần làm tăng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với cơ quan nhà nước trong giải quyết các thủ tục hành chính, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và động lực dấy lên phong trào đổi mới, sáng tạo trong các thành phần kinh tế, trong mọi tầng lớp nhân dân nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Những ngày tháng này, cả nước tin tưởng và ủng hộ những chỉ đạo quyết liệt, sáng suốt, kịp thời và hiệu quả của Đảng và Chính phủ trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 quái ác đang tàn phá toàn thế giới. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của tất cả các lực lượng và của mỗi người dân nhằm sớm đẩy lùi dịch bệnh là minh chứng cho thấy sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng thuận giữa ý Đảng và lòng dân. Những thành tựu tuy là bước đầu mà Việt Nam đã đạt được trong phòng, chống dịch bệnh được thế giới quan tâm, đánh giá cao. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, sự tận tụy hết lòng vì nhân dân của Đảng, Nhà nước, của tất cả các lực lượng tham gia chống dịch là một minh chứng cho thấy rõ bản chất nhân văn, nhân đạo, tính ưu việt của chế độ ta, của Nhà nước ta.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền còn những điểm chưa đồng bộ, vẫn còn sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng đến sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Một số tổ chức đảng, nhà nước và một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, phai nhạt niềm tin, lý tưởng. Tình trạng tham nhũng, sách nhiễu trong các cơ quan công quyền vẫn còn khá phổ biến. Tình trạng lợi ích nhóm vẫn chưa bị đẩy lùi. Các nhóm lợi ích tận dụng đến mức tối đa những kẽ hở, những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, những bất cập của hệ thống pháp luật... để vơ vét, làm giàu bất chính, làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; hoặc chà đạp lên lợi ích quốc gia và đạo lý dân tộc; vi phạm dân chủ và quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, khiến lòng dân không yên.
Thực tế đó cho thấy, xây dựng và hoàn thiện nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của V.I. Lê-nin trở thành một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm”(17). Để hoàn thành nhiệm vụ này, cần coi trọng những giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, quán triệt phương pháp luận và vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lê-nin về xây dựng nhà nước kiểu mới để tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước theo hướng trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm thiểu những bộ phận thừa, trùng chéo nhau, bao gồm cả việc hợp nhất những tổ chức có cùng hoặc gần chức năng, nhiệm vụ; tiếp tục thực hiện giảm biên chế theo nguyên tắc “thà ít mà tốt”. Đây là một công việc khó vì nó đụng chạm trực tiếp đến vấn đề lợi ích của cá nhân và tổ chức, nhưng khó mấy cũng phải quyết tâm thực hiện. V.I. Lê-nin từng khẳng định: “Chỉ có làm cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột mức, chỉ có giảm bớt đến mức tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết, chúng ta mới có thể đứng vững được”(18). Đồng thời, để xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, cần có nhiều yếu tố, trong đó coi trọng xây dựng nhà nước phục vụ, kiến tạo phát triển, một nhà nước gần dân, trọng dân, hết lòng phục vụ nhân dân; xây dựng chính quyền điện tử ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiên tiến, công nghệ cao trong cải cách nền hành chính quốc gia, trong điều hành của Quốc hội, của Chính phủ, của các bộ/ngành/địa phương, các cơ quan công quyền để bảo đảm tính chuyên nghiệp, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình, phục vụ nhân dân một cách hiệu quả nhất.
Hai là, thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đảng và nhà nước từ Trung ương đến các địa phương, cơ sở để họ thực sự là “công bộc của dân”, trong đó đặc biệt coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cao, cấp chiến lược trong hệ thống chính trị. Mỗi nhà lãnh đạo, quản lý cần được học tập, rèn luyện để thực sự là người có đức, có tài, bồi dưỡng phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả, là trung tâm đoàn kết, quy tụ và phát huy trí tuệ tập thể. Chú trọng việc nêu gương của người đứng đầu, theo nguyên tắc đảng viên nêu gương trước quần chúng, người đứng đầu nêu gương trước tập thể; khi họ sai phạm, phải kiên quyết xử lý, không có vùng cấm.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu quần chúng, vi phạm dân chủ. Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất. Nhà nước thể chế hóa đường lối của Đảng về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua việc xây dựng hệ thống luật pháp khoa học, đồng bộ để không chỉ tạo khung pháp lý làm cơ sở cho hoạt động quản lý của Nhà nước, điều tiết các mối quan hệ xã hội và các hoạt động của xã hội, mà còn tạo điều kiện và môi trường cho việc thực thi quyền tự do, dân chủ của nhân dân trong khuôn khổ của pháp luật./.
--------------------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 33, tr. 8, 9
(3), (4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 454, 435
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 346
(6) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 121
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 443
(8) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 368
(9), (10) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 453, 445
(11) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 116
(12) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 440
(13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 34, tr. 52
(14) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 489
(15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 365
(16) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 453
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 79
(18) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 459