I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ
CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ
Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt
coi trọng cán bộ. Đánh giá đúng vị trí, vai trò của cán bộ, Người cho rằng “cán
bộ là cái gốc của mọi công việc”[1].
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc viết
trong tháng 10 năm 1947, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc thành công hoặc thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng
mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”[2].
Có sự quan tâm lớn đối với cán bộ cho nên Hồ
Chí Minh đã giành nhiều bài viết, bài nói về cán bộ. Khi đề cập về cán bộ cách
mạng Hồ Chí Minh đề cập đến những nội dung như: Đạo đức cách mạng của người cán
bộ; tinh thần trách nhiệm của người cán bộ; năng lực của người cán bộ; kỷ
cương, kỷ luật của người cán bộ…
Theo Hồ Chí Minh đối với người cán bộ cách
mạng trước hết phải lấy “đạo đức làm cốt”,
đạo đức là gốc của người cán bộ cách mạng. Người nói: “Việc nước lấy Đoàn thể
làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đức làm cốt cán”[3].
Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là những người có đạo đức cách mạng: Trung với
nước, Hiếu với dân; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư; Nhân, Nghĩa, Trí,
Dũng, Liêm; Thương yêu con người, sống có tình, có nghĩa.
Nhấn mạnh đến những tiêu chuẩn của người cán
bộ cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: Cán bộ phải là người có tinh thần trách nhiệm
trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là những người
“trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh”.
Theo Hồ Chí Minh sự nghiệp cách mạng là hết
sức khó khăn, gian nan, vất vả, phải đấu tranh xóa bỏ những những cái “cũ kỹ” để
xây dựng một xã hội mới “tốt đẹp” hơn. Xây dựng một Nhà nước mới thật sự là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; xã hội mới mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Cho nên, bên cạnh những phẩm chất về đạo đức, tinh thần quyết tâm
cách mạng, Hồ Chí Minh đồng thời cũng rất coi trọng năng lực, phẩm chất về tài
năng của người cán bộ. Hồ Chí Minh từng khẳng định cán bộ là người có đủ năng lực
đảm đương công việc dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Sinh thời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng
giữa lời nói và hành động luôn nhất quán, đối với mọi vấn đề, mọi hoạt động của
mình, Người luôn chú trọng đến việc nêu gương trong từng lời nói, đến hành động.
Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải luôn coi trọng kỷ
cương, kỷ luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Người cán bộ phải thật sự
gương mẫu, là tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Thi hành kỷ luật và pháp luật
nghiêm minh là điều kiện quan trọng để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn,
khác biệt hoàn toàn về bản chất với xã hội cũ.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về công
tác cán bộ
Hồ Chí Minh nêu lên những nội dung cơ bản
là phải biết cán bộ, lựa chọn cán bộ, dùng cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương yêu
cán bộ và phê bình cán bộ:
“Biết
cán bộ”: Theo Hồ Chí Minh là đánh giá đúng phẩm chất
và năng lực của cán bộ một cách khách quan, khoa học. Đánh giá thẳng thắn tầm
quan trọng của việc “biết cán bộ” Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải biết rõ cán bộ
- Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một
khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt
thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi
ra”[4].
“Lựa
chọn cán bộ”: Hồ Chí Minh xây dựng những tiêu chí lựa
chọn cán bộ hết sức rõ ràng, đầy đủ, toàn diện. Người cho rằng phải lựa chọn được
những cán bộ là:
“a) Những
người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu
tranh.
b) Những người liên lạc mật thiết với dân
chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế,
thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
c) Những người có thể phụ trách giải quyết
các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến
thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại
không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết
kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn.
d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
Đó là những khuôn khổ để lựa chọn cán bộ, chúng ta phải theo cho đúng. Trong Đảng
ta, có những nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng không làm được
việc, không ra tranh đấu. Mà những đồng chí viết không hay nói không thạo nhưng
rất trung thành, hăng hái, rất gần gụi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta
phải sửa chữa ngay những điểm đó. Đã lựa chọn đúng cán bộ còn cần phải dạy bảo
lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng,
một mắt mù”[5].
“Huấn
luyện cán bộ”: Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng
công tác huấn luyện cán bộ. Xuất phát từ đặc điểm của cán bộ lúc bấy giờ là “Phần
đông cán bộ là công nhân và nông dân, văn hoá rất kém. Đảng chưa tìm đủ cách để
nâng cao trình độ văn hoá của họ”[6].
Cho nên theo Người: “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[7].
“Dùng cán bộ” hay
“cất nhắc cán bộ”: Hồ Chí Minh cho rằng phải làm cho đúng, cho khách quan và phải
dựa trên cơ sở đánh giá đúng cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu những người làm công
tác cán bộ phải có lòng “độ lượng vĩ đại” thì mới có thể đánh giá và sử dụng
cán bộ một cách chí công vô tư. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải cất nhắc cán bộ một
cách cho đúng. Cất nhắc cán bộ là một công tác cần kíp. Khi cất nhắc một cán bộ,
cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến
phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng
không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không
khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo.
Như thế rất có hại”[8].
“Cất
nhắc cán bộ”: Hồ Chí Minh cho rằng, việc “Cất nhắc
cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái.
Như thế, công việc nhất đinh chạy”.
“Yêu
thương cán bộ”: Hồ Chí Minh nêu quan điểm: Đảng “phải
thương yêu cán bộ”. Nhưng yêu thương cán bộ không phải là vỗ về, nuông chiều,
phó mặc. Mà yêu thương cán bộ trên cơ sở giúp đỡ, giáo dục, đào tạo cán bộ sao
cho thật sự tốt. Yêu thương cán bộ trên cơ sở giáo dục, rèn rũa cán bộ, thi
hành khen thưởng - kỷ luật nghiêm minh. Đối với những người có công thì phải
khen thưởng, những người công tác ở vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn phải
có chính sách đãi ngộ, ưu tiên hơn những vùng thành phố. Đối với người mắc sai
lầm còn cơ hội sửa chữa được thì phải thật thà giúp đỡ trên cơ sở thực thi “phê
bình và tự phê bình”.
“Phê
bình cán bộ”: Tức là thái độ ứng xử đối với cán bộ
khi họ có sai lầm, khuyết điểm. Quan điểm nền tảng của Hồ Chí Minh ở đây là “
Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”. Cho nên, trong
thực tiễn hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh luôn lựa chọn biện pháp phê bình, kiểm
thảo là biện pháp đầu tiên để xử lý cán bộ mắc sai lầm. Xuất phát từ tư tưởng Hồ
Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng biện pháp nhân trị, giáo dục, thuyết phục con
người. Theo Hồ Chí Minh phe bình và tự phê bình phải có phương pháp, có cách thức,
nhằm mục đích giúp đồng chí, đồng đội tiến bộ. Người phân biệt rõ ràng phê bình
và tự phê bình với trù dập cán bộ, người chú trọng việc cán bộ khuyến khích
nhân dân phê bình. Tuy nhiên, đồng thời Hồ Chí Minh cũng luôn đặc biệt coi trọng
việc thi hành kỷ luật, pháp luật nghiêm minh để làm gương đối với những trường
hợp vi phạm. Riêng đối với những người không còn sửa chữa được nữa nếu cần thiết
thì cho ra khỏi hệ thống Nhà nước, thậm chí xử lý nghiêm theo quy định của pháp
luật.
Như vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ cho chúng ta thấy sự thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học, tính
nghệ thuật và vượt lên trên tất cả là tính nhân văn sâu sắc.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
CÔNG AN NHÂN DÂN
1. Nội hàm “cán bộ công an” theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí
Minh không chỉ đề cập đến nội hàm của Người cán bộ trong một bài nói, một bài
viết mà nội hàm cán bộ được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
Tại Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa
Hồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm cán bộ toàn diện, sâu sắc. Theo Người: “Cán
bộ là gì? Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”[9].
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh tiếp tục quan niệm về cán bộ: “Cán
bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”[10].
Khi đề cập đến người cán bộ công an, Hồ Chí
Minh quan niệm: “Công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa
vào nhân dân mà làm việc”[11].
Vào thời điểm khác Hồ Chí Minh lại cho rằng cán bộ công an là người đi đầu,
tiên phong trong việc thực thi chính sách pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, mặc dù có nhiều quan niệm khác
nhau có những lúc liệt kê, có những lúc khái quát, song từ những quan niệm của
Hồ Chí Minh đã nêu trên cho chúng ta thấy, cán bộ công an theo Hồ Chí Minh là
“con người cụ thể”, được tuyển dụng, đào tào, bồi dưỡng, làm việc trong Ngành
công an nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhà nước.
2. Vị trí, vai trò của cán bộ công
an
a.Về vị trí
Nói đến vị trí của người cán bộ công an Hồ
Chí Minh đã có cách thức xác định đúng đắn, rất độc đáo, sáng tạo, vừa đánh giá
đúng bản chất, vị thế của người cán bộ công an vừa mang tính toàn diện, thuyết
phục, đi vào lòng người:
- Đối với nhân dân
Trong mối tương quan giữa cán bộ công an với
nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết người cán bộ công an giữ vị trí vừa là
người lãnh đạo, chỉ huy, hướng dẫn, giúp đỡ vừa là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân. “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Đây là một
quan điểm hết sức đúng đắn thể hiện mối quan hệ biện chứng trong mối tương quan
vị trí của người cán bộ công an so với nhân dân.
- Đối với Đảng, Nhà nước, Chính phủ:
Người cán bộ công an giữ một vị trí hết sức
quan trọng, một bộ phận cấu thành không thể thiếu, là sợi dây chuyền để cho bộ
máy công an hoạt động có hiệu quả. Người công an như động cơ thúc đẩy, duy trì
tầm ảnh hưởng, mọi hoạt động của bộ máy công an. Nếu không có người cán bộ công
an thì mọi hoạt động của bộ máy công an ngừng hoạt động.
- Đối với người cán bộ khác trong bộ máy Nhà
nước dân chủ nhân dân:
Bên cạnh việc xác định vị trí của người cán
bộ công an trong mối tương quan với nhân dân và xác định vị trí của người công
an trong bộ máy Nhà nước, Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm tới việc xác định vị
trí của cán bộ công an với cán bộ của các cơ quan, ban ngành khác trong Nhà nước
dân chủ nhân dân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc xác
định đúng vị trí của người cán bộ công an so với vị trí của người cán bộ ở các
cơ quan, đoàn thể khác. Theo Người, việc xác định đúng vị trí của cán bộ công
an là một trong những biện pháp quan trọng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan niệm rõ tuyệt đối không thiên vị,
coi trọng lực lượng, cán bộ của cơ quan, đơn vị này hơn cán bộ của cơ quan, đơn
vị khác. Người luôn rất công bằng, công tâm, đánh giá đúng vai trò quan trọng của
các cơ quan, đơn vị, đoàn thể. Cho nên, Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ công
an với người cán bộ ở các cơ quan, đơn vị, đoàn thể khác đều có vị trí ngang bằng
nhau, là người “đồng chí”, không phân biệt hơn, kém và đều “người đày tớ thật
trung thành của nhân dân” phải hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ
quốc.
b.Về vai trò
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh bên cạnh việc tập trung xác định một đường lối cách mạng đúng đắn, xây
dựng được một chính Đảng vững mạnh đủ sức tập hợp và lãnh đạo đông đảo quần
chúng nhân dân để đi tới giành thắng lợi thì Người đồng thời đặc biệt chú trọng
đến việc cán bộ và công tác cán bộ. Bởi lẽ, trong thực tiễn hoạt động cách mạng
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò, tầm quan trọng to lớn của cán bộ.
Đánh giá đúng vai trò của người cán bộ Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán”. Nghĩa là theo Hồ
Chí Minh cán bộ là xương sống, là gốc, là điểm tựa quan trọng nhất của hoạt động
đoàn thể, giống như lực lượng cách mạng là đông đảo quần chúng nhân dân, nhưng
trong đó công - nông là gốc của người cách mạng.
Trong một lần khác Hồ Chí Minh đánh giá vai
trò của cán bộ qua một câu nói hết sức cô đọng, súc tích nhưng toàn vẹn, đầy đủ
về vai trò của người cán bộ. Hồ Chí Minh nhận định: “Cán bộ là gốc của mọi công
việc”. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh có sự vận dụng, phát triển sáng tạo những
tiền đề lý luận của ông cha ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Cha ông ta
từng cho rằng “nước lấy dân làm gốc”, coi nhân dân là kế “sâu dễ, bền gốc” thì
Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ là gốc của mọi công việc. “Gốc có vững thì cây mới
bền”, vì vậy người cán bộ là điểm mấu chốt, điểm gốc, điểm mẹ hết sức quan trọng
của mọi công việc từ lớn đến bé, từ quan trọng đến ít quan trọng của cách mạng.
Trên cơ sở đánh giá vai trò của người cán bộ
nói chung như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của người cán bộ công
an. Khi bàn về vai trò của người cán bộ công an Hồ Chí Minh đã có nhiều cách tiếp
cận khác nhau:
Trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh Hồ
Chí Minh cho rằng, cán bộ công an giữ vai trò “nòng cốt”, “tiên phong” trong sự
nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Bởi lẽ, giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là
nhiệm vụ của ngành công an. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu
và có nhiều biện pháp giúp đỡ, thúc đẩy để người cán bộ, chiến sỹ công an luôn
luôn phát huy được vai trò nòng cốt, tiên phong của mình trong sự nghiệp giữ
gìn trật tự, an ninh.
Đồng thời, Hồ Chí Minh cho rằng, người cán
bộ công an giữ vai trò là “thanh bảo kiếm” để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo
vệ nhân dân. Người cán bộ công an là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh đập
tan mọi hoạt động của cách thế lực thù địch, tham mưu cho Đảng, Nhà nước đề ra
nhiều chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo.
Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, cán bộ công
an là một trong những nhân tố quan trọng, giữ vai trò đảm bảo cho sự thành công
của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Người cán bộ công an là lực lượng định
hướng, giúp đỡ nhân dân, đào tạo, huấn luyện nhân dân để nhân dân phát huy được
sức mạnh to lớn của mình trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Đồng thời,
cán bộ công an cũng là lực lượng quan trọng hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ dạy các lực
lượng khác có những biện pháp, cách thức bảo vệ an ninh, trật tự.
Nói đến vai trò của người cán bộ công an
tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng dù ở cách thức nào cũng hết sức đầy
đủ, rõ ràng, dễ hiểu. Song Hồ Chí Minh cho rằng “Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
có người, mà trong số người muốn lên chủ nghĩa xã hội thì cán bộ là đầu tiên và
cốt cán”. Trong số những người cán bộ đó, người cán bộ công an là lực lượng
tiên phong nhất, cần đi trước các cơ quan, ban ngành, đoàn thể khác.
3. Yêu cầu về những phẩm chất cần
có của người cán bộ công an
- Yêu cầu về chính trị:
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn đặc biệt chú ý đến việc xây dựng lực lượng công an nhân dân vững
mạnh về chính trị. Mà trước tiên, Người chú trọng xây dựng người cán bộ công an
có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Theo Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị của
người cán bộ công an thể hiện rõ nét ở chỗ là luôn luôn tuyệt đối trung thành với
Đảng, Nhà nước, chế độ và Tổ quốc trong mọi tình huống, mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Vì những lẽ đó trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ dạy giúp đỡ lực lượng Công an
nhân dân từng bước xây dựng và phát triển về mọi mặt Hồ Chí Minh luôn đặt ra một
yêu cầu cốt yếu đối với người cán bộ công an là phải tuyệt đối trung thành.
Trong tác phẩm Tư cách người Công an cách
mạng Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ công an“Đối
với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành”. Hồ Chí Minh cho rằng trung thành là
một trong những tiêu chí quan trọng, đầu tiên để tuyển chọn cán bộ, chiến sỹ
công an.
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu người cán bộ
công an phải phục tùng sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng từ trên xuống dưới, nhất định
phải như thế. Cán bộ công an phải tuyệt đối không được cho rằng các đồng chí
lãnh đạo đảng không có chuyên môn, nghiệp vụ công an nên không lãnh đạo được
công an. Theo Hồ Chí Minh mỗi người cán bộ Công an phải luôn nhận thức rõ còn Đảng,
còn mình, Đảng có lãnh đạo đúng thì chuyên môn mới đúng. Vì vậy, người cán bộ
công an “Phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng từ
trên xuống dưới”. Đây vừa là yêu cầu, vừa là nguyên tắc.
- Yêu cầu về tư tưởng:
Cán bộ công an là lực lượng nòng cốt, tiên
phong bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc cho nên theo Hồ Chí Minh phải
luôn có lập trường tư tưởng cách mạng vững vàng. Đề cập đến yêu cầu về tư tưởng
đối với người cán bộ công an, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cán bộ công an phải có tư tưởng
xã hội chủ nghĩa. Bác từng nói: “Còn về phần cán bộ công an thì phải như thế
nào?... Trước hết cán bộ phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lập trường phải rõ
ràng, vững chắc đã”. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo Người là việc tăng cường sự
học tập quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong điều kiện
cụ thể của nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ công an phải
có tinh thần phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ “Công an phải có tinh thần phục vụ
nhân dân, là bạn dân”. Cán bộ công an cần nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình
trong mối tương quan đối với nhân dân. Trong tư tưởng của mình, người công an cần
xác định rõ công an là người đày tớ thật sự trung thành của nhân dân, làm công
an là để phục vụ nhân dân, đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ công an phải
luôn thật sự cố gắng, biết vượt qua khó khăn, gian khổ để xứng đáng với sự tin
cậy của Đảng, của nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ công an phải thấy rõ:
“Là Đảng, Chính phủ hết sức chăm sóc. Các cô các chú phải xứng đáng với lòng
tin cậy của Đảng và Chính phủ”. “Phải có tinh thần cố gắng, vươn lên khắc phục
khó khăn, gian khổ”. Bởi lẽ, công tác của ngành công an phải thường xuyên đối
diện với những khó khăn, nguy hiểm, gian nan, vất vả, nhiều hi sinh thầm nặng,
không phải thường xuyên được lên báo, lên đài đài phát thanh mới là vẻ vang,
công tác công an rất cần và cũng rất khó. Vì vậy, đòi hỏi trong tư tưởng của
người cán bộ công an phải luôn luôn cố gắng, biết vượt qua khó khăn, gian nan,
vất vả.
Về mặt tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu
rõ cán bộ công an “Phải luôn luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm. Có như vậy mới
xứng đáng là người cán bộ được Đảng và nhân dân tín nhiệm”. Trách nhiệm, gương
mẫu trong công việc là người cán bộ công an đã góp phần quan trọng vào việc
tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
- Yêu cầu về phẩm chất đạo đức:
Theo Hồ Chí Minh đạo đức là một trong những
yêu cầu, đòi hỏi quan trọng nhất đối với người cán bộ cách mạng nói chung và đối
với người cán bộ, chiến sỹ công an nhân dân nói riêng. Đánh giá đúng tầm quan
trọng của đạo đức và sự cần thiết phải có đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nhiều
lần khẳng định “Cán bộ lấy đức làm cốt cán”. Trong tác phẩm Di chúc để lại cho Đảng, Nhà nước ta Hồ
Chí Minh cũng đã yêu cầu “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Đối với lực lượng Công an nhân dân Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Cán bộ công an phải cố gắng, gương mẫu trong học tập, trong công
tác, gương mẫu về đạo đức cách mạng”[12].
Trong tác phẩm Tư cách người công an cách mạng viết năm 1948 Hồ Chí Minh đã căn dặn
và yêu cầu người cán bộ công an “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”[13]…
Để nâng cao đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh
cho rằng cán bộ công an phải thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Bác nói: “Phải trau dồi đạo đức cách mạng, cũng phải chống chủ nghĩa cá nhân”.
Đây là hai công việc cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, bền
bỉ. Bác cho rằng chủ nghĩa cá nhân như “cỏ dại” một căn bệnh hết sức nguy hiểm
đối nghịch hoàn toàn với tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nên cần phải loại bỏ. Muốn
vậy, người cán bộ công an phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức
cách mạng.
Từ những yêu cầu và sự chỉ dạy cụ thể đó, Hồ
Chí Minh đi đến tóm lược. Người khẳng định: “Nói tóm lại là những đạo đức và tư
cách mà người công an cách mệnh phải có, phải giữ cho đúng”[14].
- Yêu cầu đối với công tác chuyên
môn, nghiệp vụ:
Hồ Chí Minh đã đưa ra rất nhiều những yêu cầu cụ thể, rõ ràng cần phải
có của người cán bộ công an trong quá trình thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp
vụ để giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân.
Một trong những yêu cầu quan trọng
hàng đầu đối với công tác chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công an, đó là: “Đối
với công việc phải tận tụy”. Nghĩa là người cán bộ công an phải thật sự chăm chỉ,
chịu khó, hết lòng hết sức đối với công việc được giao phó.
Để thực hành chuyên môn, nghiệp vụ cho tốt,
cho đúng đắn, Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ công an “Phải nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ”[15].
Người cán bộ công an phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực thi chính sách của
Đảng và Chính phủ.
Công tác chuyên môn, nghiệp vụ công an có
nhiều bí mật, thầm lặng nhưng đồng thời cũng rất khó, là liên quan đến vận mệnh
của chế độ, quốc gia, dân tộc và sinh mệnh chính trị của con người cho nên,
theo Hồ Chí Minh “Về công tác: Phải
đi sâu, phải thiết thực, phải điều tra nghiên cứu, không được chủ quan, tự túc
tự mãn”[16].
Đây là những yêu cầu người cán bộ công an phải luôn ghi nhớ và thực hành cho tốt
trong mọi tình huống, mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ
công an: “Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải
toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”[17].
Trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ Hồ Chí
Minh quan niệm rằng, cán bộ công an “Phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch
bên trong và kẻ địch bên ngoài”. Đây là một yêu cầu quan trọng, là công việc mà
người cán bộ công an phải thường xuyên thực hiện cho nên phải làm cho thật tốt,
thật hiệu quả.
Công tác công an liên quan đến nhiều lĩnh vực,
nhiều địa bàn, đặc biệt là ở những vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào, dân
tộc, tôn giáo cho nên theo Hồ Chí Minh, cán bộ công an “Phải nắm vững chính
sách đối với đồng bào thiểu số, điều đó rất cần thiết”[18].
Đây là điều kiện đề người cán bộ công an gần gũi với nhân dân, thật sự thân
dân, đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời đó cũng là
điều kiện để người cán bộ công an luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, thường
xuyên người cán bộ công an đối diện với kẻ thù, cho nên Hồ Chí Minh yêu cầu phải
luôn giữ được bản lĩnh cách mạng, “đối với địch, chớ nên hoang mang, cần phải hết
sức trấn tĩnh, trấn tĩnh là bước đầu thắng địch. Cố nhiên, trấn tĩnh rồi còn phải
đi sâu xét kỹ”[19]. Bác
cho rằng địch không có gì tài tình gì đâu, có những điều ta không dấu địch mà địch
cũng không học được bởi lẽ chúng ta có chính nghĩa.
Trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Hồ
Chí Minh yêu cầu người cán bộ công an phải kiên quyết tránh chống sử dụng nhục
hình. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán, lên án hành vi sử dụng nhục hình, Người
cho rằng sử dụng nhục hình là dã man, là chưa tẩy rửa được bản chất phong kiến,
là dẫn đến sai lệnh vụ án, cho nên cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ nhục
hình.
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu trong quá trình thực
hiện công tác chuyên mốn công an phải có “Lề lối làm việc phải dân chủ”… nghĩa
là phải thực hiện nghiêm túc chính sách phê bình và tự phê bình, phê bình từ
trên xuống dưới, “Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu
công an, yêu công an, và giúp đỡ công an”[20].
Hồ Chí Minh từng khẳng định công tác công
an rất cần nhưng cũng rất khó cho nên người cán bộ chiến sỹ công an cần phải có
tài, như:
·
Chính trị giỏi
·
Pháp luật giỏi
·
Bắn súng giỏi
·
Bơi giỏi
·
Bảo vệ giỏi
·
Kỹ thuật giỏi
·
“Khôn khéo”
·
“Can đảm”
·
Có hiểu biết văn hóa, phong tục
của từng địa phương.
·
Có năng lực thuyết phục, vận động
quần chúng
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, Hồ Chí Minh yêu
cầu, trong công tác chuyên môn, cán bộ công an phải thật sự gần dân, thân dân,
phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Cán bộ,
chiến sỹ công an “Phải dựa vào dân, không được xa rời dân”[21].
“Phải đoàn kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng rộng lớn
của nhân dân”[22]. “Phải
đi đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an mới
thành công được”[23]. “Phải
đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các ngành khác”[24].
Trong công tác cán bộ công an phải thương
yêu giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Bác nói: “Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến,
giúp nhau tiến bộ”[25].
Đây là điểm mấu chốt, là cơ sở để cán bộ công an hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ,
luôn xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và nhân dân. Người cán bộ công an phải
thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, coi trọng việc xây dựng tinh thần đoàn kết, tương
trợ, tương thân, tương ái.
Mặc dù đề ra rất nhiều những yêu cầu đối với
người cán bộ, chiến sỹ công an nhưng Hồ Chí Minh cũng không quên nhắc nhở và
yêu cầu người cán bộ công an “Phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của người công an
nhân dân của một nước dân chủ nhân dân”[26].
- Yêu cầu về ý thức tổ chức, kỷ luật:
Kỷ luật theo Hồ Chí Minh là sức mạnh. Sinh
thời Người mặc dù rất coi trọng biện pháp nhân trị, giáo dục, thuyết phục con
người, song đồng thời Người cũng đặc biệt coi trọng việc xây dựng ý thức tổ chức,
kỷ luật. Cho nên, đối với người cán bộ công an Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu
“Phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang”[27].
Đối với người cán bộ, chiến sỹ công an, xuất phát bản chất là lực lượng vũ
trang, công tác chuyên môn thường xuyên đối diện với nhiều nguy hiểm và có nhiều
bí mật, coi trọng kỷ luật và chấp hành tốt kỷ luật là một đòi hỏi phải luôn
luôn được thực hành.
4. Nhiệm vụ của người cán bộ công
an
Khi đề cập
đến nhiệm vụ của người cán bộ công an, Hồ Chí Minh có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Có những lúc người khái quát, có những lúc người liệt kê, tùy theo từng
điều kiện, hoàn cảnh và thời điểm nói.
Để có
cách nhìn tổng thể, dễ dàng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của người cán bộ,
chiên sỹ công an chúng ta có thể thấy như sau:
+ Cán bộ công an có nhiệm vụ bảo vệ nhân
dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, chế tộ, Tổ quốc. Hồ Chí Minh nói: “Nhiệm vụ
của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân
dân”[28].
+ Bảo vệ các công trình trọng điểm, chống địch
phá hoại: Tại buổi Nói chuyện tại Hội nghị
công an toàn quốc lần thứ 10 vào tháng 1 năm 1956 Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm
vụ của cán bộ công an. Người khẳng định: “Nhiệm vụ của công an là phải chặn tay
bọn phá hoại”[29], bảo
vệ các công trình trọng điểm.
+ “Trấn áp thù trong - giặc ngoài”
+ Có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh.
+ Phòng gian phải đi đôi với giữ bí mật.
+ Giáo dục người mắc lầm lỗi: Theo Hồ Chí
Minh giáo dục người lầm lỗi là một nhiệm vụ cần phải được tiến hành thường
xuyên của người cán bộ công an. Người đã chỉ ra nhiều phương pháp, cách thức để
người cán bộ công an giáo dục người lầm lỗi. Trong đó Hồ Chí Minh đã chỉ ra yêu
cầu giáo dục với người lầm lỗi là: “ngay cả đối với người “dinh tê” cũng không
được coi thường họ mà phải giáo dục họ, thuyết phục họ để họ thấy chũng ta là
những người cách mạng”.
+ Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng
lực lượng công an đoàn kết, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh từng nói: “Đối với
nhân dân, đối với Đảng, với cách mạng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của công an
rất lớn, rất nặng nề. Cho nên phải xây dựng một bộ máy công an rất tốt, rất chắc
chắn. Ai phải xây dựng? Mỗi một cán bộ công an đều có trách nhiệm vào đấy”[30].
Xây dựng bộ máy công an đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thiết thực,
hiệu quả. Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi từng cán bộ công an phải thực hành cho tốt.
Tuyệt đối tránh tư tưởng đùn đẩy trách nhiệm, cho rằng việc xây dựng bộ máy
công an là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong Công an nhân dân.
+ “Công an phải luôn luôn giúp đỡ, tổ chức,
giáo dục nhân dân” cũng như các lực lượng khác trong sự nghiệp giữ gìn trật tự,
an ninh”. Người nhấn mạnh: “Mỗi công an viên đóng chỗ nào thì cần dạy cho dân
quân, tự vệ nơi đó cách điều tra, xét giấy, phòng gian, v.v.. Dạy cho dân ở nơi
đó giữ bí mật. Và tự mình phải luôn luôn giữ lễ phép. Tránh hách dịch, v.v..”[31].
Liệt kê nhiệm vụ của Công an rất nhiều,
song Hồ Chí Minh tóm tắt lại: “Nhiệm vụ của công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt
là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa”[32].
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG
TÁC CÁN BỘ TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN
1. Tầm quan trọng của công tác cán
bộ trong Công an nhân dân
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo
những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của đất nước ta và xuất phát từ những kinh nghiệm đúc rút từ trong thực tiễn, Hồ
Chí Minh đã sớm chỉ cho chúng ta thấy ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của công
tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ trong Công an nhân dân nói riêng.
Hồ Chí Minh đã từ rất sớm đã có nhận
thức đúng đắn, toàn diện, đầy đủ khi cho rằng công tác cán bộ là một vấn đề chiến
lược, có ý nghĩa lâu dài trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy,
ngay từ khi ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, huấn
luyện cán bộ để phục vụ cho cách mạng về sau này. Người đã thường xuyên mở những
lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ. Đồng thời, Người cũng tổ chức tuyển chọn, giới
thiệu cán bộ trong nước ra nước ngoài học tập, công tác ở trường Đại học phương
Đông… Trên cơ sở đó, sau này cách mạng Việt Nam đã có một lượng cán bộ đông đảo,
đủ phẩm chất để tham gia hoạt động cách mạng trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ. Chính
vì vậy, theo Hồ Chí Minh, công tác cán bộ trong Công an nhân dân cũng là một vấn
đề chiến lược, có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Theo Hồ Chí Minh, công tác cán bộ trong
công an là cơ sở để xây dựng một đội ngũ cán bộ công an có phẩm chất chính trị,
tư tưởng vững vàng, chuyên môn, nghiệp vụ giỏi để đảm đương được mọi nhiệm vụ
cách mạng mà Đảng và nhân dân ta giao phó. Công tác cán bộ đồng thời cũng là cơ
sở, điều kiện để xây dựng một bộ máy Công an nhân dân Việt Nam trong sạch, “vững
mạnh về chính trị”, “vững vàng về tư tưởng”, xây dựng bộ máy công an “tinh gọn,
thiết thực, hiệu quả”.
Thời gian ngày càng lùi đi xa nhưng cho đến
nay những đánh giá của Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của Công tác cán bộ vẫn
còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Công tác tuyển chọn cán bộ Công
an nhân dân
Hồ Chí
Minh luôn luôn coi trọng công tác tuyển chọn cán bộ và nhấn mạnh sự cần thiết
phải tuyển chọn cán bộ. Thực tiễn cho thấy, Hồ Chí Minh đã xây dựng được một
phương pháp, cách thức tuyển chọn cán bộ hết sức độc đáo, sáng tạo. Đồng thời,
từ trong thực tiễn đã chứng minh Hồ Chí Minh là “bậc thầy” trong công tác tuyển
chọn cán bộ. Trong suốt quãng đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã
thực hành việc tuyển chọn cán bộ rất nhiều và những cán bộ được Hồ Chí Minh tuyển
chọn đều là những người “tài đức vẹn toàn”, phục vụ đắc lực, hiệu quả nhiệm vụ
cách mạng, không những được nhân dân ta kính trọng mà còn được thế giới thừa nhận.
Đó là một điều đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyển chọn cán bộ.
Công tác tuyển chọn cán bộ trong công an được
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng. Người cho rằng đây là một công việc hết sức cần
thiết và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, hiệu quả. Tuyển chọn cán bộ
sai ảnh hưởng rất lớn đến cách mạng, thậm chí là dẫn tới cách mạng thất bại.
Hồ Chí Minh cho rằng, bên cạnh những tiêu
chí về tài năng, phẩm chất, điều kiện về trí tuệ, sức khỏe, thì một trong những
tiêu chí luôn luôn phải có đối với những người dự tuyển vào ngành công an đó là
“lòng trung thành”. Đối với Hồ Chí Minh “lòng trung thành là tiêu chí đầu tiên,
quan trọng hàng đầu để tuyển chọn cán bộ công an”.
Hồ
Chí Minh cho rằng công tác tuyển chọn cán bộ công an phải hợp lý góp phần xây dựng
bộ máy Công an tinh gọn, thiết thực, hiệu quả. Người khẳng định: “Đảng, Chính
phủ rất chú ý đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công an. Ở
trường này một người giúp đỡ hướng dẫn 4 học viên… Không có cơ quan nào lại nhiều
cán bộ như thế này. Vậy chớ còn kêu là ít cán bộ”[33].
Hồ Chí Minh luôn luôn yêu cầu tuyển chọn
cán bộ phải đảm bảo phục vụ mục tiêu của cách mạng, phục vụ nhân dân, đem lại
hiệu quả trong công tác của ngành Công an. Tuyển chọn cán bộ vào trong ngành
công an phải đảm bảo “Cách tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái
tệ quá hình thức, giấy má…”[34].
Bởi lẽ Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến tính hiệu quả và tiết kiệm, bởi lẽ đất nước
chúng ta còn nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
Luôn luôn quan tâm, chỉ dạy thường xuyên đến
công tác tuyển chọn cán bộ công an, Hồ Chí Minh luôn rất tin tưởng vào năng lực,
phẩm chất, tiêu chuẩn của người cán bộ công an. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính
phủ rất chú ý đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công an… Học
sinh thì 95% là đảng viên, chỉ còn 5% là ngoài Đảng. Ngoài Đảng nhưng Đảng rất
tin cậy, vì các cán bộ đó đã được chọn lọc, rất trung thành với Đảng”[35].
3. Công tác đào tạo cán bộ Công an
nhân dân
- Tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ:
Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Bởi lẽ theo Hồ Chí Minh con người tốt hay xấu cũng đều do
“giáo dục” cho nên muốn đào tạo được đội ngũ cán bộ công an tốt phải thường
xuyên coi trọng công tác giáo dục, đào tạo cán bộ. Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng,
Chính phủ rất chú ý đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công
an”.
- Nguyên tắc đào tạo cán bộ:
Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc
trong công tác đào tạo cán bộ Công an nhân dân hết sức đơn giản nhưng đầy đủ,
cô đọng, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Hồ Chí Minh khẳng định công
tác đào tạo:
+“Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học
việc ấy”[36].
+ “Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế,
văn hoá, tổ chức, tuyên truyền, công an, v.v., cán bộ ở môn nào phải học cho thạo
công việc ở trong môn ấy”[37].
+ Công tác đào tạo cán bộ phải được tiến
hành một cách thường xuyên, liên tục, bền bỉ.
- Mục tiêu đào tạo cán bộ:
Theo Hồ Chí Minh công tác đào tạo cán bộ
trong công an nhân dân phải hướng tới các mục tiêu:
+ Phục vụ cho các hoạt động tích cực. Mà hoạt
động tích cực theo Hồ Chí Minh đó chính là phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả, trình độ của
cán bộ, chiến sỹ công an, đi vào thực tiễn, tránh lý luận suông, gắn lý luận với
thực tiễn.
+ Đào tạo phải linh hoạt, sáng tạo, tránh dập
khuôn máy móc, đào tạo phải đơn giản, thiết thực, hiệu quả, dễ hiểu.
+ Phải lấy công tác đào tạo cán bộ, chiến sỹ
công an nhằm hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước, thiết
thực, hiệu quả chứ không phải là phục vụ lợi ích của một cá nhân hay một nhóm
cá nhân nào.
4. Công tác sử dụng cán bộ Công an
nhân dân
Hồ Chí Minh từng đưa ra nguyên tắc sử dụng
cán bộ: “Dụng nhân như dụng mộc”. Theo Người, phải dùng cán bộ đúng khả năng,
chuyên môn, chống việc sử dụng lung tung như: bảo thợ rèn đi đóng tủ, bảo thợ mộc
đi rèn dao.
Đối với việc sử dụng cán bộ, chiến sỹ công
an, Hồ Chí Minh cho rằng phải có chính sách quan tâm cán bộ, chiến sỹ đúng đắn,
phù hợp. Bác căn dặn: “Một điểm nữa là đối với các anh em ở những nơi hẻo lánh,
gian khổ, ra một bước phải trèo núi, v.v., thì cấp trên phải chú ý nhiều hơn đối
với những đơn vị ở thành phố”[38].
Nghĩa là phải có phương pháp, có cách thức sử dụng cán bộ đúng đắn, tùy từng
hoàn cảnh, môi trường, địa bàn mà có cách thức sử dụng cán bộ sao cho hợp lý.
Bác thường xuyên yêu cầu: “Cấp trên phải
chú ý đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ, nhưng chiến sĩ cũng phải
có sáng kiến để cải thiện đời sống của bản thân mình. Đó là một kinh nghiệm”[39]. Như vậy, bên cạnh việc căn dặn người cán bộ,
chỉ huy trong công an nhân dân phải tăng cường có nhiều biện pháp, cách thức sử
dụng cán bộ sao cho hợp lý, khách quan, khoa học, sử dụng cán bộ trên cơ sở hiểu
biết rõ ràng, đầy đủ về cán bộ, Hồ Chí Minh còn cho rằng những cán bộ không phải
là lãnh đạo, chỉ huy trong công an cũng cần phải sáng tạo. Người cán bộ cần phải
cố gắng, biết phát uy những ưu điểm của mình, hạn chế nhược điểm được thể hiện
thông qua từng công việc cụ thể. Để qua đó, cũng đồng thời giúp người cán bộ chỉ
huy trong Công an nhân dân có phương pháp, cách thức để đánh giá và sử dụng cán
bộ sao cho thật hiệu quả.
5. Công tác đánh giá, kiểm tra,
giám sát cán bộ Công an nhân dân
Kiểm tra, đánh giá, giám sát cán bộ, chiến
sỹ Công an là một trong những hoạt động không thể thiếu trong công tác cán bộ
nói chung và đối với công tác cán bộ của ngành Công an nới riêng. Công tác kiểm
tra, đánh giá, giám sát cán bộ có tốt mới có điều kiện, cơ sở để kịp thời phát
hiện những trường hợp cán bộ công an có dấu hiệu vi phạm, qua đó chủ động làm
công tác phòng ngừa, ngăn chặn, giáo dục, thuyết phục, uốn nắn, sửa chữa ngay từ
ban đầu. Tránh để đến lúc hậu quả nghiêm trọng rồi mới phát hiện thì sẽ hết sức
nguy hiểm cho cách mạng.
Nhận thức rõ được ý nghĩa, tầm quan trọng của
công tác đánh giá, giám sát cán bộ trong Công an nhân dân cho nên, theo Hồ Chí
Minh công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục. Người nói: “Công an thường phải kiểm soát nhân viên và công việc
của mình”[40].
Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp kiểm tra,
giám sát rất hiệu quả, vừa mang tính chất dân chủ, khách quan. Hồ Chí Minh nêu
rõ yêu cầu, công tác kiểm tra giám sát phải từ trên xuống dưới, từ dưới lên
trên. Người nhận định: “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải
phê bình cấp trên”[41].
Trong quá trình kiểm tra, giám sát, cần phát huy vai trò trước hết là người cán
bộ, chỉ huy trong công an nhân dân. Người cán bộ, chỉ huy trong công an phải
thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ cấp dưới của mình. Đồng thời cũng phải
phát huy dân chủ, khuyến khích, động viên cấp dưới kiểm tra, giám sát cấp trên.
Điểm độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ trong Công an nhân dân đó là Hồ
Chí Minh yêu cầu công an phải khuyến khích nhân dân kiểm tra, đánh giá, giám
sát công an. Qua đó, nhân dân vừa giúp đỡ công an, vừa kiểm tra công an. Đây là
điểm khác biệt hoàn toàn về bản chất trong công tác kiểm tra, giám sát của Công
an nhân dân Việt Nam, là một điểm độc đáo của chế độ ta, nhằm thực sự phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định để công tác kiểm
tra, giám sát, đánh giá cán bộ cho thật tốt, thật khách quan, một mặt ngành
công an phải xây dựng được quy chế kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ khoa học,
toàn diện. Đồng thời đòi hỏi cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá
cán bộ phải công tâm, công minh, hướng tới mục tiêu vì nước, vì dân để làm nhiệm
vụ chứ không được lợi dụng công tác kiểm tra, giám sát cán bộ để trù dập cán bộ.
6. Công tác thi đua - khen thưởng,
kỷ luật cán bộ Công an nhân dân
Sự quan tâm của Hồ Chí Minh đối với công
tác thi đua - khen thưởng và kỷ luật trong công an nhân dân được thể hiện rất
rõ nét. Từ khi lực lượng công an nhân dân ra đời, với cương vị là Chủ tịch nước,
Chủ tịch Đảng, Hồ Chí Minh phải thường xuyên giành thời gian chăm lo cho việc
lãnh đạo đất nước, lãnh đạo cách mạng. Người không có thời gian dành cho gia
đình riêng. Mặc dù bận việc nước, đường xá xa xôi, song mỗi khi có điều kiện, Hồ
Chí Minh đều dành thời gian đến thăm và làm việc trực tiếp với ngành công an,
nhất là mỗi khi lực lượng công an tổ chức hội nghị thi đua - khen thưởng nhằm động
viên, thăm hỏi, tiếp sức cho cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân tiếp tục cố gắng,
nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Lúc bận việc, hoàn cảnh không cho
phép, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên gửi thư khen ngợi những đơn vị, cá
nhân cán bộ, chiến sĩ công an có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự. Bản thân Hồ Chí Minh là người đã khởi xướng, nêu ra nhiều chủ
trương, biện pháp, chính sách khuyến khích, thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ công an cố
gắng phấn đấu vươn lên, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh đánh giá: công tác thi đua -
khen thưởng, kỷ luật trong công an nhân dân là rất cần thiết, giữ một vai trò
quan trọng, là một giải pháp hữu hiệu, tạo động lực thúc đẩy phong trào thi
đua, khuyến khích, động viên cán bộ, chiến sĩ công an và quần chúng nhân dân
tham gia vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, không ngừng cố gắng, vươn lên lập
thành tích xuất sắc góp phần vào sự thành công chung của sự nghiệp cách mạng.
Đồng thời, Người nhận định: qua công tác
thi đua - khen thưởng, kỷ luật là cơ sở giúp ngành công an tổng kết, đánh giá
thực trạng công tác của ngành, của đơn vị, của cá nhân đã thực hiện được đến
đâu, những ưu điểm, mặt mạnh, mặt hạn chế, tồn tại, thiếu sót. Trên cơ sở đó
giúp ngành công an có những biện pháp để xây dựng kế hoạch hoạt động của mình một
cách tốt nhất để phát huy được những điểm tốt, điểm mạnh, điểm đã làm được và kịp
thời phát hiện, khắc phục những điểm yếu, điểm tồn tại, hạn chế cần được sửa chữa.
Hồ Chí Minh đã phân tích: “Những ưu điểm mà Bác kể trên và những điểm Bác dặn,
các chú phải có công tác kiểm tra, đôn đốc cho tốt. Bác nói ít mà các chú nhớ
và làm được những điều Bác nói là tốt rồi. Bác kết luận là, nếu các chú phát
triển được những cái ưu điểm mà các chú đã có, làm đúng những điểm mà Bác nhắc
nhở là các chú góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”[42].
Theo Hồ Chí Minh, công tác thi đua - khen
thưởng có tác dụng quan trọng trong công tác xây dựng lực lượng công an nhân
dân một cách toàn diện. Qua công tác thi đua - khen thưởng và kỷ luật cũng là một
kênh thông tin giúp ngành công an phát hiện được những cá nhân tích cực, có phẩm
chất, năng lực để kịp thời động viên, khen thưởng, nhân rộng tấm gương người tốt,
việc tốt. Đồng thời, đây cũng là kênh thông tin để ngành công an kịp thời phát
hiện cán bộ, chiến sĩ công an có những vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống
tùy vào những mức độ để có hình thức xử lý, thanh lọc làm cho ngành công an
không ngừng lớn mạnh, tuyệt đối trong sạch, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao.
Hồ
Chí Minh yêu cầu công tác thi đua, khen thưởng và kỷ luật phải đảm bảo tính
khách quan, trung thực, đúng đắn, rõ ràng: Đây là một
nguyên tắc quan trọng nhất, một yêu cầu mà công an phải luôn luôn giữ vững khi
thực hiện thi đua - khen thưởng và kỷ luật.
Thi đua,
khen thưởng, kỷ luật cần tiến hành thường xuyên, liên tục: Hồ Chí Minh nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác thi đua - khen
thưởng và kỷ luật trong công an nhân dân nên đã yêu cầu: Công tác thi đua -
khen thưởng, kỷ luật phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên, liên tục. Trong
“Bài nói tại Đại hội chiến sĩ thi đua
công an nhân dân vũ trang”, ngày 2-3-1962, Hồ Chí Minh đã căn dặn và nhấn mạnh:
“phong trào thi đua phải làm bền bỉ, liên tục. Các chú có thi đua và có thành
tích đấy, nhưng Bác dặn phải bền bỉ và liên tục”[43].
Thi đua
- khen thưởng và kỷ luật phải có điều kiện: Hồ Chí
Minh nói: “Bác sẽ tặng tổ chức của các chú một lá cờ luân lưu để thưởng đơn vị
nào thi đua khá nhất. Thi đua phải có điều kiện, điều kiện như thế nào các chú
thảo luận với nhau. Ví dụ như bắt được nhiều đặc vụ, biệt kích hay dân vận,
tăng gia tốt... Bác sẽ ký tên vào lá cờ này và đơn vị nào giành được cờ thì được
thêu tên vào đấy. Đơn vị nào được thêu tên 2, 3 lần thì quý hóa lắm”[44].
Thi
đua - khen thưởng phải gắn liền với kỷ luật: Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thi đua - khen thưởng phải gắn liền với công tác
kỷ luật, hai nội dung này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Thi
đua - khen thưởng và kỷ luật đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả: Trước tình hình đất nước còn nghèo, đời sống nhân dân còn khó khăn,
vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện thi đua - khen thưởng đảm bảo
tính tiết kiệm, hiệu quả; chú trọng hình thức khen thưởng bằng tinh thần, mang
tính chất tượng trưng, động viên.
7. Xây dựng đội ngũ làm công tác
cán bộ trong Công an nhân dân
Một
trong những nội dung trong công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ trong
Công an nhân dân nói riêng được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đó là việc xây dựng
đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ.
Theo Hồ
Chí Minh đội ngũ làm công tác cán bộ phải là người có tài và đức, phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, có năng lực đánh giá và sử dụng cán bộ hiệu quả,
biết phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu của cán bộ. Phải thật sự
gương mẫu, đi đầu trong mọi tình huống, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, chấp
hành tốt mọi quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ. Không tư lợi
riêng, lạm dụng quyền lực, chức trách nhiệm vụ để trù dập cán bộ, luân chuyển
cán bộ trái với quy định.
Người làm công tác cán bộ theo Hồ Chí Minh
phải luôn đặt việc công tâm, công minh lên hàng đầu, tuyệt đối không được thiên
vị, sử dụng tình cảm cá nhân cảm tính trong việc đánh giá, sử dụng cán bộ.
Người làm công tác cán bộ phải là người có
trí tuệ, tầm nhìn sâu, rộng, toàn diện để có khả năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước,
lãnh đạo đề ra những chiến lược cán bộ đúng đắn, sâu sắc.
Đây cũng là những phẩm chất cần phải có đối
với người làm công tác cán bộ trong lực lượng Công an nhân dân. Mà theo Hồ Chí
Minh trước hết là đối với những người lãnh đạo, chỉ huy trong công an nhân dân.
Bởi lẽ, người lãnh đạo, chỉ huy trong Công an nhân dân là những người trực tiếp
chỉ đạo, tham gia vào mọi khâu của công tác cán bộ.
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY
1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng,
Bộ Công an
Vận dụng
và phát triển sáng tạo những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ, Đảng, Nhà nước ta và Bộ Công an đã có sự chỉ đạo và đề ra nhiều
chủ trương, biện pháp về việc xây dựng người cán bộ công an và công tác cán bộ
công an trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ.
Đánh giá tầm quan trọng đặc biệt của cán bộ,
trong quá trình xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ CNH, HĐH đất nước Đảng ta đã
khẳng định: Cán bộ quyết định sự thành bại của cách mạng; Gắn liền với vận mệnh
của Đảng; Là khâu then chốt trong việc xây dựng Đảng.
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp nhấn mạnh và
làm rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp
vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”.
Xác định vai trò, tầm quan
trọng của công tác cán bộ, những năm qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị
quyết, quy định về công tác cán bộ. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) “về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Bộ Chính trị khóa IX có
Nghị quyết số 11-NQ/TW “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” và Nghị
quyết số 42-NQ/TW “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
có Kết luận số 37-KL/TW “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
có Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”;
Quyết định số 244-QĐ/TW về ban hành “Quy chế Bầu cử trong Đảng”; Bộ Chính trị
khóa XI có Kết luận số 24-KL/TW “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo” và Chỉ thị
số 36-CT/TW “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng”,...
Cụ thể hóa các nghị quyết, kết luận,
chỉ thị, quy định, quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư về công tác cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành nhiều hướng
dẫn để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng, trong đó có Hướng dẫn số
15-HD/BTCTW, ngày 05-11-2012, “Công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Hướng dẫn số
26-HD/BTCTW, ngày 18-8-2014, “Công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”.
Quán triệt những quan điểm và sự chỉ đạo của
của Đảng và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ,
Bộ Công an đã chủ động xây dựng nhiều văn bản, chỉ thị quy định về tiêu chuẩn
tuyển chọn cán bộ vào công an như: Quyết định số 666/1998/QĐ-BCA(X13) ngày 12/10/1998 của Bộ trưởng Bộ Công
an về việc ban hành quy định tuyển chọn cán bộ vào lực lượng Công an nhân dân. Quyết
định số 627/2003/QĐ-BCA(X13) ngày 10/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Công
an về việc sửa đổi đối tượng, tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ vào lực lượng Công
an nhân dân. Thông tư
30/2009/TT-BCA quy định tuyển Công an nhân dân Thông tư
71/2011/TT-BCA quy định về tuyển sinh vào các trường Công an nhân dân. Nội dung
các Quyết định, Thông tư này quy định hết sức đầy đủ, rõ ràng, toàn diện về các
tiêu chuẩn chính trị, tư tưởng, đạo đức, lý lịch, trình độ học vấn, sức khỏe…của
người được thi và tuyển dụng vào Công an nhân dân.
Về công tác cán bộ, thực
hiện các nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, ngày 3-2-1998, Đảng ủy
Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐU(VP) về công tác cán bộ
của lực lượng Công an nhân dân (CAND) trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Nội dung
của Nghị quyết đã tập trung đánh giá toàn diện về thực trạng đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ trong lực lượng CAND. Đề ra phương hướng và những chủ trương,
giải pháp lớn nhằm đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, làm nòng cốt cho công tác
xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trên cơ sở đánh giá kết quả hơn 10 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), Đảng ủy Công an Trung ương đã ban
hành Kế hoạch số 42-KH/ĐUCA(X11) ngày 29-10-2009 tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ trong lực lượng CAND đến năm 2020. Kế hoạch xác định các quan
điểm chỉ đạo, mục tiêu và 9 giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ CAND một
cách đồng bộ từ nâng cao nhận thức, kiện toàn, nâng cao hiệu quả của tổ chức bộ
máy các cấp, đến việc tổ chức thực hiện có hệ thống, cụ thể các khâu trong công
tác cán bộ…
Việc đảm bảo biên chế trong Ngành Công an
đã được quy định cụ thể trong Nghị định số 43/2007/NĐ-CP ngày 26/3/2007 theo
đó, hàng năm Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tổng biên chế của Công an nhân dân. Các đối tượng được tính biên
chế cũng dần được điều chỉnh phù hợp, hiện nay chỉ bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân Công an và học
viên trong các trường Công an nhân dân - theo quy định trước đây bao gồm cả số
chiến sĩ nghĩa vụ và lao động hợp đồng.
2. Những kết quả đạt được và hạn
chế
a. Kết quả
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ, Công tác cán bộ trong Công an nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Bộ Công an trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực và rõ
nét:
+ Các quy trình công tác cán bộ được gắn với
việc kiện toàn, nâng cao hiệu lực của bộ máy, góp phần chuẩn hóa các quy trình,
quy chế, đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý điều hành. Công tác
cán bộ luôn bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ; dân
chủ, công khai trong công tác cán bộ được mở rộng.
+ Đã triển khai tương đối đồng bộ, có hiệu
quả các nội dung công tác cán bộ; việc tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, luân
chuyển, nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý
và thực hiện chính sách cán bộ đã dần đi vào nền nếp, tạo sự thống nhất trong
thực hiện; vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác cán
bộ được nâng cao.
+ Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ CAND đã có bước
trưởng thành rõ rệt, số lượng và chất lượng được nâng lên, cơ bản đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự.
+ Tuyệt đại đa số đội ngũ cán bộ, chiến sỹ
CAND luôn thể hiện rõ lập trường cách mạng kiên định, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân;
giữ gìn và phát huy được phẩm chất tốt đẹp của người chiến sỹ CAND tận tụy
trong công tác, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần trách nhiệm, ý thức
phục vụ nhân dân, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
+ Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp được xây dựng, rèn luyện trong thực
tiễn công tác, chiến đấu; năng lực lãnh đạo, chỉ huy từng bước thích ứng trước
những diễn biến phức tạp của tình hình; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo,
hoạt động có hiệu quả.
+
Công tác cán bộ đã thực sự góp phần xây dựng lực lượng CAND trong sạch,
vững mạnh, xứng đáng là nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
b. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công
tác cán bộ còn bộc lộ những bất cập, hạn chế: Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục.
Chậm đổi mới phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối
với cán bộ. Thiếu cơ chế để phát huy dân chủ, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ,
thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, trì trệ. Chậm xây dựng, hoàn thiện cơ
chế giám sát trong Đảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của nhân dân đối
với cán bộ các cấp và công tác cán bộ.
Chưa có chính sách để thu hút và trọng dụng
nhân tài. Tình trạng “chạy” chức, “chạy” quyền, “chạy” bằng cấp, huân chương
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế,
lúng túng, nhất là đối với những vấn đề chính trị hiện nay. Nhiều cấp uỷ, tổ chức
đảng chưa quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ, một số nơi
phiến diện, thiếu chặt chẽ.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
chưa quán triệt đầy đủ quan điểm công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác
xây dựng đảng. Việc quán triệt, triển khai các văn bản về công tác cán bộ chưa
đồng đều, chỉ đạo tổ chức thực hiện còn chậm và lúng túng.
Phương pháp, quy trình đánh giá, quy hoạch,
bổ nhiệm cán bộ nhiều điểm còn chưa khoa học, hợp lý. Việc bố trí, sử dụng cán
bộ mới chú ý đến yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, chưa quan tâm đào tạo cán bộ cho
lâu dài. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược và người
đứng đầu chưa được quan tâm đúng mức. Luân chuyển cán bộ chưa khắc phục được
tình trạng cục bộ, khép kín ở một số ngành, địa phương. Chủ trương luân chuyển
bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý không là người địa phương chưa
được thực hiện nghiêm túc. Chưa quyết liệt trong việc miễn nhiệm, thay thế kịp
thời những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, để công việc trì trệ, mất
uy tín. Công tác nghiên cứu, tham mưu ban hành chính sách cán bộ còn thiếu đồng
bộ, chưa theo kịp với thực tế. Nhiều vấn đề bất hợp lý trong công tác cán bộ
không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Đội ngũ
cán bộ xét cả về số lượng, chất lượng còn một số mặt chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trong thời đại mới. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh
cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, thoái hoá, biến chất, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, thiếu tinh thần đồng
chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài
nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Công tác tuyển sinh tuyển dụng chưa đúng với
yêu cầu thực tiễn dẫn đến mất cân đối về giới tính, thành phần. Cơ cấu đội ngũ
cán bộ vẫn mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý. Tỷ lệ cán bộ trẻ, nữ, người
dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu. Tuổi trung
bình của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp vẫn
còn cao...
Công tác
tuyển dụng, bố trí cán bộ có những lúc, những nơi còn cảm tính, chưa có quy định
rõ ràng, đầy đủ, cho nên dẫn đến tình trạng tuyển dụng cán bộ không đủ năng lực,
trình độ.
Chiến lược cán bộ có những lúc, những thời
điểm còn chưa hợp lý, khoa học dẫn đến việc xuất hiện “khoảng trống” thế hệ cán
bộ kế cận.
Công tác xác minh trong quá trình tuyển dụng
cán bộ còn có những bất cập, hạn chế, chưa đúng quy trình, thủ tục dẫn đến có sự
việc tuyển dụng cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn, thậm chí là đối tượng truy nã, phản
động.
Công tác quản lý cán bộ còn có nơi, có lúc
còn lỏng lẻo dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật ngành.
Hiện tượng sử dụng nhân lực trái với năng lực,
sở trường hay nhận thức về công tác luân chuyển cán bộ theo quy định của Đảng
có những nơi, có những lúc chưa đúng dẫn đến việc sử dụng cán bộ trái với năng
lực, sở trường, chuyên môn, nghiệp vụ dẫn tới hiệu quả công tác không cao.
Bên cạnh đó chưa có biện pháp, cách thức
khuyến khích cán bộ phát huy hết vai trò, năng lực của mình hoặc tình trạng sử
dụng cán bộ không đúng với mục đích, năng lực chuyên môn dẫn đến tình trạng lãng
phí nhân lực…
- Nhiều đơn vị biên chế tăng không phải vì
yêu cầu nhiệm vụ mà do thực hiện chính sách con, em, đối ngoại, nhất là ở các
lĩnh vực công tác nhạy cảm. Năng lực của một bộ phận cán bộ yếu, không theo kịp
yêu cầu nhiệm vụ, nên phải lấy số lượng thay cho chất lượng, tình trạng này
không đến mức phổ biến, nhưng ở đơn vị, địa phương nào ít nhiều cũng có mà
không thể điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc giải quyết đầu ra. Bên cạnh
đó, việc bố trí, sử dụng cán bộ ở nhiều nơi không hợp lý, chồng chéo trong phân
công, cắt khúc công việc làm tăng biên chế không cần thiết.
+ Số lượng cán bộ có trình độ, năng lực còn
thấp, biên chế tăng với số lượng lớn, nhưng trình độ đội ngũ, đặc biệt là trình
độ cao đẳng, đại học trở lên về nghiệp vụ công an chưa có sự gia tăng tương ứng.
Hiện nay, số lượng cán bộ công an có trình độ cao đẳng, đại học trở lên về nghiệp
vụ công an mới đạt khoảng 30%, thấp hơn so với mục tiêu phát triển đề ra đến
năm 2015 là 50%. Đáng chú ý trong đó có một số địa phương tỉ lệ cán bộ có trình
độ cao đẳng, đại học trở lên về nghiệp vụ công an còn rất thấp dưới 20%. Đây là
một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng lượng công tác nghiệp vụ.
+ Tỉ lệ tuổi của cán bộ mất cân đối, số cán
bộ có độ tuổi dưới 30 chiến tỷ lệ khá cao khoảng 46,80%, nhưng phần đông trong
đó là trình độ trung cấp hoặc chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ đặt ra “áp
lực” trong đảm bảo biên chế công tác thường xuyên và đào tạo nâng cao trình độ.
+ Tỷ lệ cán bộ nữ hiện chiếm khoảng 14%
biên chế là cơ bản phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực của ngành đến năm
2020, nhưng ở một số đơn vị, địa phương tỷ lệ này còn chưa hợp lý. Số lượng cán
bộ người dân tộc thiểu số bố trí ở vùng dân tộc thiểu số chưa phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ và chưa đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các thành phần dân tộc.
+ Tỉ lệ cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo chỉ huy
các cấp tại Công an địa phương hiện nay tương đối cao. Qua công tác quản lý cán
bộ và nắm tình hình chung cho thấy, lãnh đạo, chỉ huy từ Phó Đội trưởng, Phó
Trưởng Công an phường trở lên có xu hướng “thoát ly” công việc thực tế chỉ tập
trung vào chủ trương, chỉ đạo chung chung, ký duyệt văn bản…, ít trực tiếp đảm
nhiệm những công việc cụ thể. Việc triển khai các Đội ở một số địa phương có biểu
hiện “nghiêng nhiều về chính sách cán bộ hơn là xuất phát từ đòi hỏi của nhiệm
vụ và khi đã triển khai tổ chức rồi thì lại xuất hiện về biên chế, quân số cho
tương xứng với tổ chức”.
3. Biện
pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ trong Công an nhân dân
- Cấp ủy và chỉ huy công an các cấp phải xác định xây dựng Đảng, xây dựng
lực lượng CAND là công tác trọng tâm, then chốt trong thực hiện nhiệm vụ chính
trị.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện của Đảng đối với Công tác công an nói chung và đối với công tác
cán bộ nói riêng. Đây là một trong những công tác trọng tâm là cơ sở, điều kiện
để công tác xây dựng cán bộ và công tác cán bộ trong thời gian tới thật sự có
hiệu quả.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả và tổ chức thực hiện tốt các giải pháp quản lý, bố trí, sử dụng
biên chế theo kế hoạch của Bộ Công an; thực hiện cải cách hành chính trong công
tác cán bộ - cán bộ.
- Xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế
tuyển dụng, sử dụng, bố trí cán bộ một cách hợp lý, khoa học trong thời gian tới.
Đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ. Đổi mới quan điểm, phương pháp,
quy trình đánh giá cán bộ. Bảo đảm đánh giá công khai, minh bạch, trung thực,
khách quan, toàn diện, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ và uy tín trong cơ
quan, đơn vị làm thước đo chủ yếu. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ.
Đối với cán bộ diện quy hoạch lâu dài, cần lựa chọn nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch
là những người ưu tú trong công nhân và những người lao động, công chức trẻ,
sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp, trong lực lượng vũ trang. Định kỳ lựa chọn bổ
sung cán bộ đủ tiêu chuẩn, có triển vọng đưa vào quy hoạch. Xây dựng, cụ thể
hoá tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, ngành làm cơ sở cho
việc phát hiện, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp
tục thực hiện luân chuyển cán bộ, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động
của các cấp, ngành và nhân dân về luân chuyển cán bộ. Thực hiện luân chuyển
trên cơ sở quy hoạch cán bộ. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa luân chuyển, điều
động và tăng cường cán bộ. Kết hợp hài hòa giữa luân chuyển với ổn định đội ngũ
cán bộ. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo
điều kiện để cán bộ luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường quản lý,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng: Đổi mới cách dạy,
cách học; phát huy tính tích cực của học viên, cập nhật và vận dụng kiến thức
vào giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng theo các tiêu chuẩn chức danh... Đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo đảm lợi
ích vật chất và động viên tinh thần phù hợp từng loại cán bộ để họ an tâm công
tác, tận tâm với công việc; có chính sách, quy chế tôn vinh những người có đức,
có tài, có tâm huyết; phát huy, sử dụng tốt tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí
thức và tầng lớp doanh nhân không phân biệt là đảng viên hay người ngoài Đảng.
- Tăng cường đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao về
lý luận khoa học, nghiệp vụ công an, khoa học - kỹ thuật - công nghệ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Tập trung xây dựng đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp thật sự
xuất sắc, tiêu biểu về năng lực, trình độ, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, lối sống,
là tấm gương để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo; đẩy mạnh công tác quy hoạch
và luân chuyển cán bộ, nhất là thực hiện luân chuyển đối với số cán bộ trẻ có đủ
năng lực, phẩm chất, uy tín để chủ động chuẩn bị về nhân sự cho đại hội đảng bộ
các cấp trong lực lượng CAND nhiệm kỳ tới.
- Cấp ủy và cơ quan tổ
chức - cán bộ các cấp phải kịp thời quán triệt các quy định, hướng dẫn mới của
Trung ương, bám sát yêu cầu nhiệm vụ để kịp thời xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung hệ thống quy trình, quy chế, kế hoạch về công tác cán bộ thật sự khoa học
và tổ chức thực hiện nghiêm túc.
- Tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ; kiên quyết đưa ra khỏi cơ
quan làm công tác tổ chức - cán bộ những người có phẩm chất đạo đức, năng lực yếu,
không gương mẫu, vi phạm kỷ luật; lựa chọn những cán bộ trung thực, tâm huyết với
công việc, có trình độ và có tư duy đổi mới, phong cách làm việc dân chủ, sâu
sát, khoa học để bố trí làm công tác tổ chức - cán bộ.
CÂU HỎI ÔN TẬP, KIỂM TRA
Câu 1: Làm rõ những luận điểm của Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong Công an nhân dân?
Câu 2: Làm rõ mối quan hệ và tầm quan trọng
của cán bộ và công tác cán bộ trong Công an nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh?
Câu 3: Phân tích những yêu cầu cần phải có đối
với người cán bộ công an. Liên hệ đối với bản thân?
Câu 4: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác cán bộ trong Công an nhân dân trong thời gian tới?
Câu 5: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ. Đảng ta và Bộ Công an đã vận dụng tư tưởng này như
thế nào trong việc xây dựng người cán bộ công an trong thời đại mới?
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tô Lâm (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Tô Lâm (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân -
Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Tô Lâm (2015), 125 câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Công
an nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Cao Sơn – Nguyễn Việt
Hùng (đồng chủ biên) (2016): Vận dụng một
số nội dung khoa học chính trị trong công tác công an (Sách tham khảo),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. http://tutuonghochiminhc500.blogspot.com/2016/03/sua-oi-loi-lam-viec-trich-phan-iv-van-e.html
5. http://tutuonghochiminhc500.blogspot.com/2016/03/sua-oi-loi-lam-viec-trich-phan-iv-van-e.html
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.309.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.313.
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.265.
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.314.
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.315.
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.309.
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.309.
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.314.
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.68.
[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.313.
[11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.498.
[12]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.250.
[13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.498.
[14]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.499.
[15]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.260.
[16]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.249.
[17]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.599.
[18]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12,
tr.155.
[19]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.259.
[20]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.313.
[21]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7,
tr.270.
[22]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.83.
[23]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.599.
[24]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.599.
[25]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.312.
[26]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7,
tr.270.
[27]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.599.
[28]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.259.
[29]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.259.
[30]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11,
tr.250.
[31]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.249.
[32]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12,
tr.221.
[33]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.11, tr.248.
[34]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.6, tr.312.
[35]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.11, tr.248.
[36]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.309.
[37]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.309, 310.
[38]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.12, tr.155.
[39]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.12, tr.155.
[40]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.499.
[41]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.6, tr.312.
[42]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.13, tr.351.
[43]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.13, tr.351.
[44]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.13, tr.352.
Tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn bởi trong đó đã kết tinh tinh hoa của triết học chính trị phương Đông và phương Tây, của triết học chính trị Mác – Lênin, đặc biệt là sự đúc kết từ chính quá trình Người phát hiện, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ trong cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa quan trọng mang tầm vóc thời đại, là kim chỉ nam dẫn đường chỉ lối cho dân tộc ta trong công cuộc đổi mới, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết đã thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của tác giả về tư tưởng Hồ Chí Minh, lối diễn đạt hết sức khoa học, giọng văn truyền cảm mang tới nhiều tri thức quý báu cho người đọc. Xin chân thành cảm ơn các tác giả vì những đóng góp thầm lặng đã mang thế hệ trẻ chúng tôi đến gần hơn với Bác và những tư tưởng vĩ đại của Người.
Trả lờiXóa“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ "vừa hồng vừa chuyên", có năng lực lãnh đạo,biết tổ chức quần chúng thực hiện tốt nhiệm vụ của cách mạng nước ta, đi đến mục tiêu đã chọn có vị trí đặc biệt quan trọng.
Trả lờiXóa“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ "vừa hồng vừa chuyên", có năng lực lãnh đạo,biết tổ chức quần chúng thực hiện tốt nhiệm vụ của cách mạng nước ta, đi đến mục tiêu đã chọn có vị trí đặc biệt quan trọng.
Trả lờiXóaVì sao Hồ Chí Minh lại yêu cầu cán bộ, Chiến sĩ Công an phải có những phẩm chất đó?
Trả lờiXóabài viết rất có ý nghĩa
Trả lờiXóaLà một phần quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh ,tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ đã trở thành cốt lõi trong việc tuyển chọn , đào tạo và bỗi dưỡng cán bộ phục vụ nhân dân. Với vai trò nòng cốt ,quyết định đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa và nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đội ngũ cán bộ cần phải được tuyển chọn kĩ lưỡng, đủ dục đủ tài ,thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ,có mục tiêu làm việc là vì lợi ích của Nhân dân ,đáp ứng được những yêu cầu trong công việc...
Trả lờiXóaTư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ Công an: Là một bộ phân quan trọng của hệ thống chính trị, giữ vai trò nòng cốt trong việc bảo vệ An ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, lực lượng cán bộ Công an nhân dân luôn cần tự trau dồi bản thân về đạo Đức cách mạng theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần tuyền chọn ,đào tạo ,bồi dưỡng cán bộ Công an đủ Đức đủ tài ,xây dựng lực lượng công an ngày càng vững manh ,chính quy ,tinh nhuệ ,hiện đại .
Bài viết trên rất hay và có ý nghĩa, cung cấp cho không chỉ cán bộ mà còn cả người đọc hiểu được vai trò và tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ ,chỉ ra phương hướng cần làm trong thời gian tới.
Em xin cảm ơn bài viết rất hay này !!!
Với vai trò là nòng cốt đi trước thực hiện các mọi đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, đội ngũ cán bộ có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định đến sự thành bại của mọi đường lối chính .Đội ngũ cán bộ phải ý thức được vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện và vận động ,tổ chức cho quần chúng nhân dân thực hiện cách chính sách đó . Bài giảng trên đã cho em hiểu được những việc cần phải làm của công tác cán bộ và tuyển chọn cán bộ phục vụ nhân dân .Theo đó, cần tuyển chọn ,đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực ,đủ Đức đủ tài phục vụ nhân dân .
Trả lờiXóaCông tác cán bộ trong CAND cũng cần quán triệt sâu sắc "tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" trong việc tuyển chọn và đào tạo . Với vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mang của đất nước hiện nay ,lực lượng CAND luôn cần tự mình xây dựng cho đội ngũ cán bộ năng lưc ,trách nhiệm, phục vụ nhân dân.
Sau khi đọc bài viết trêntrên, em đã có được phần nào hiểu biết về "tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ",song em có một vấn đề thắc mắc là:Trong thời kì hiện nay, hoàn cảnh đất nước đã có những thay đổi so với thời kì tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời, vậy việc ápáp dụng tư tưởng trong thời kì hiện nay cần thực hiên như thế nào"
Rất mong được sự giải đáp của các thầy cô! Em xin cảm ơn