1. Những quan điểm nhằm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Phân tích thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền dân chủ trong lịch sử, đặc biệt là những quy luật của nền dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng: Đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công là hiện thân của sự ra đời nền dân chủ mới, vì Cách mạng đã đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga từ địa vị những người nô lệ bị bóc lột và áp bức lên địa vị những người chủ của xã hội. Theo đó, việc thiết lập chính quyền nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, việc Đảng Cộng sản khẳng định trong thực tế vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của mình, việc xã hội bước vào thời kỳ quá độ lịch sử phát triển theo các định hướng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã được xác định như những điều kiện căn bản nhất cho sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ, bởi vì lần đầu tiên trong lịch sử một nền dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được ra đời.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ trong đó mọi quyền lực thực sự đều thuộc về nhân dân, dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội thống nhất với nhau, kết hợp hài hòa với nhau và điều đó làm cho nền dân chủ này trở thành nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết quả hoạt động đấu tranh cách mạng tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể ra đời, tồn tại và phát triển. Không thể có dân chủ xã hội chủ nghĩa mà lại thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bên cạnh đó quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta”. Với nghĩa đó có thể hiểu nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng luật pháp. Do đó, nền dân chủ luôn gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị.
Như vậy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc không ngừng mở rộng các phương thức thực hành dân chủ với mọi tầng lớp nhân dân lao động cũng đồng thời là việc kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, gây nguy hại cho tiến trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ và chuyên chính được đặt trong mối quan hệ biện chứng với nhau của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Nhà nước là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời là công cụ của chuyên chính giai cấp. Vì lợi ích của tất cả những người lao động trong xã hội (tức là tuyệt đại đa số nhân dân) mà nhà nước thực hiện vai trò là công cụ chuyên chính của mình, tiến hành trấn áp bằng bạo lực đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, gây nguy hại cho nền dân chủ của nhân dân. Mặc dù nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là chức năng cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất tốt đẹp và ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định và làm sáng tỏ cả về lý luận cũng như thực tiễn như thế, vậy mà các thế lực thù địch vì muốn phủ nhận, chống phá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã đưa ra các luận điệu sai trái, phản động như: Chế độ dân chủ tư sản như nó đang tồn tại ở phương Tây là chế độ dân chủ cao nhất, là thiên đường vĩnh hằng, là mục tiêu cao nhất mà loài người đang đi tới; rằng muốn có dân chủ thực sự thì phải thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng, “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”; rằng “đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng lên một quốc gia dân chủ”, và “đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của nhân dân”; rằng chủ nghĩa xã hội là chuyên chính, không có dân chủ... Đi cùng với những luận điệu trên, các thế lực thù địch đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi thể chế Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình tam quyền phân lập giống như của các nhà nước tư sản hiện đại, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ vai trò lãnh đạo đối với xã hội.
2. Phê phán các quan điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Theo nguyên nghĩa văn tự cổ Hy Lạp, dân chủ xuất phát từ thuật ngữ “demoskratos”, trong đó demos nghĩa là nhân dân và kratos nghĩa là cai trị. Theo cách diễn đạt này, thuật ngữ dân chủ được hiểu nhân dân cai trị. Về sau, dân chủ được các nhà tư tưởng chính trị quan niệm là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, một nền dân chủ đúng nghĩa thì phải bảo đảm các yếu tố cơ bản sau đây: Một là, thừa nhận nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Hai là, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng giữa các công dân, sự bình đẳng ấy được thể hiện bằng sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật. Ba là, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước và pháp luật, theo đó, dân chủ cũng được thực hiện dưới hình thức nhà nước với các tên thường gọi như là “chính thể dân chủ”, “chế độ dân chủ”, hay đơn giản hơn là “nền dân chủ”.
Dân chủ với những nội dung và hình thức biểu hiện của nó luôn thay đổi, biến đổi từ xã hội này sang xã hội khác trong suốt chiều dài lịch sử. Tức là dân chủ bị quy định bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của các quốc gia - dân tộc khác nhau, qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và dân chủ cũng luôn phát triển trên cơ sở phát triển của các điều kiện đó. Mỗi bước phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đều dẫn tới những bước phát triển kéo theo của dân chủ. Ngược lại, sự phát triển dân chủ bao giờ cũng tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Cuộc đấu tranh của nhân dân cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản trong lòng chế độ xã hội phong kiến đã thể hiện sự đoạn tuyệt khá triệt để của giai cấp tư sản đối với tư tưởng chuyên chế phong kiến. Trong nền dân chủ tư sản, nhiều yêu cầu về quyền công dân, quyền con người được ghi nhận về pháp lý, nhiều khát vọng về tự do của con người (tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hội họp...) được pháp luật thừa nhận.
Có thể nói, nền dân chủ tư sản đã có những cống hiến hết sức to lớn đối với lịch sử tiến hóa nhân loại, nhưng nó cũng mắc phải những hạn chế rất lớn. Những hạn chế đó xét đến cùng là do nền dân chủ đó được xây dựng trên nền tảng bất di, bất dịch là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc của chế độ người bóc lột người. Giai cấp tư sản thường ca ngợi và tuyên truyền cho nền dân chủ của họ là nền “dân chủ thuần tuý”, dân chủ tư sản không có tính chất chuyên chính, không mang tính chất giai cấp nên nó mở rộng vô bờ bến. Ngày nay, giai cấp tư sản càng có thiện tâm thiện ý “đề cao dân chủ, dân quyền”, tuy nhiên, V.I.Lênin đã chỉ ra một sự thật là: Quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất và chính quyền mà nằm trong tay bọn bóc lột, thì không thể nào nói đến tự do chân chính, bình đẳng chân chính cho những người bị bóc lột, nghĩa là cho đại đa số nhân dân được.
Nền dân chủ tư sản là chế độ bảo vệ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn thể nhân dân lao động. Bên cạnh đó nó đề cao quyền tự do cá nhân dẫn tới cá nhân cực đoan thực dụng - dẫn đến lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với lợi ích của xã hội. Điều này đã dẫn đến nhiều khuyết tật không thể tránh khỏi đã nảy sinh trong xã hội tư bản như: Sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng xã hội, tình trạng thất nghiệp, sự áp bức, bóc lột người lao động, ô nhiễm môi trường... Cho nên, về thực chất có thể thấy dân chủ tư sản vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và thực hiện sự thống trị đối với nhân dân lao động. V.I.Lênin cho rằng: Ngay trong giai đoạn phát triển nhất của nền cộng hòa dân chủ tư sản thì chế độ dân chủ ấy vẫn bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư sản, thực ra, nó chỉ là chế độ dân chủ đối với thiểu số mà thôi.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời trên cơ sở kế thừa các giá trị dân chủ trước nó, nhất là kế thừa các giá trị của nền dân chủ tư bản. Bởi vì, trong bức tranh chung về tiến trình phát triển của lịch sử, chế độ tư bản là nấc thang cận kề để từ đó bước lên nấc thang tiếp theo là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu dân chủ mà chủ nghĩa tư bản đạt được là thành quả tích lũy của loài người trong quá trình tiến hóa lâu dài, từ thấp đến cao, mà chỉ từ đó mới có thể tiến lên một nền dân chủ cao hơn. Tuy thế, dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với dân chủ tư sản. Khi so sánh nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã đi đến một tư tưởng khái quát: Dân chủ vô sản là thứ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản.
Nền dân chủ tư sản còn tuyệt đối hóa thuyết đa nguyên chính trị, coi đó là chế độ duy nhất đảm bảo dân chủ. Vì vậy, nhiều quan điểm cho rằng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc nhất nguyên chính trị, dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản sẽ không thể đảm bảo dân chủ thật sự.
Có thể thấy, vấn đề đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập xuất hiện và được bàn luận, đề cập nhiều từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang độc quyền thống trị xã hội. Lúc đầu, tư tưởng “đa nguyên luận” nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng độc quyền, mất dân chủ của giới tài phiệt và một số chính trị gia tư sản, bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư và lợi ích của một số nhóm nhỏ trong xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng “đa nguyên luận” không đạt được mục đích của mình là dân chủ hóa xã hội mà chỉ hình thành nên một số đảng phái trong xã hội nhằm phân chia, tranh giành quyền lực lẫn nhau.
Đa nguyên, đa đảng cũng có những yếu tố tích cực nhất định nhưng thực chất đa nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ. Đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm được dân chủ đích thực mà bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân... Vì vậy, một đảng lãnh đạo không đồng nhất với độc tài lãnh đạo, không đồng nhất với mất dân chủ. Không nhất thiết cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thực sự và không có đa nguyên, đa đảng thì không có dân chủ.
Ngoài ra, đa nguyên chính trị là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử tồn tại nhiều đảng phái có những lợi ích căn bản mâu thuẫn với nhau. Do vậy, nếu đa nguyên chính trị thì tất yếu dẫn tới tồn tại nhiều đảng phái đối lập, song không thể có điều ngược lại, nếu các đảng không có những lợi ích căn bản đối lập. Vì vậy, đa nguyên hay nhất nguyên là xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn lịch sử chứ không phải là khuôn mẫu cho mọi nền dân chủ.
Giai cấp tư sản cho rằng nền dân chủ của họ là nền “dân chủ thuần tuý”, dân chủ tư sản không có tính chất chuyên chính, nhà nước tư sản với cơ chế tam quyền phân lập mới có thể đảm bảo được dân chủ. Vì vậy, các thế lực thù địch đã đưa ra quan điểm phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cho rằng đó là bộ máy chuyên chính, với cơ chế quyền lực thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể nào đảm bảo dân chủ thực sự được. Đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đòi thực hiện cơ chế tam quyền phân lập trong bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa...
Về vấn đề này, khi xem xét dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ chung chung”. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Vì vậy, như đã phân tích ở trên, dân chủ tư sản không phải là nền dân chủ thuần túy, mà đó là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với đông đảo nhân dân lao động thông qua nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Trong khi coi chế độ dân chủ tư sản là bước lớn trong lịch sử, V.I.Lênin chỉ ra: “Phải đề phòng, không một lúc nào quên thực chất tư sản của chế độ “dân chủ” đó, tính chất tương đối và hạn chế của nó về mặt lịch sử, phải đề phòng không được nhiễm phải cái “lòng tin mê muội” vào “Nhà nước”, không được quên rằng ngay cả trong một chế độ cộng hòa dân chủ nhất, chứ không nói trong một chế độ quân chủ nữa, thì Nhà nước cùng thể là cái gì khác hơn là một bộ máy áp bức của giai cấp này đối với giai cấp khác”.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó. Đây cũng chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng trực tiếp nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả việc xây dựng xã hội mới; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của đảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện...
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Theo đó, nhân dân thông qua lập hiến mà trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước đó là xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải phân công và kiểm soát quyền lực đó. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân. Có thể nói, mục tiêu cuối cùng của quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước là phục vụ nhân dân, thực hiện “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chứ không phải để phân tách, phân rã quyền lực của nhân dân như các thiết chế tam quyền phân lập. Trên cơ sở đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới thực sự là bộ máy chuyên chế của nhân dân lao động nhằm đảm bảo thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời của một nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất yếu gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện dưới nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm. Có dân chủ hay không có dân chủ, dân chủ nhiều hay ít, dân chủ thực sự hay dân chủ hình thức... không tuỳ thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng. Không phải chỉ thực hiện “đa nguyên, đa đảng” mới có dân chủ. Xét đến cùng và quan trọng nhất có dân chủ hay không là thể hiện ở chỗ quyền lực và quyền lợi có thuộc về người dân hay không? Để thực sự phát huy quyền làm chủ của mỗi người dân, để mỗi công dân thể hiện đầy đủ nhất quyền lợi và trách nhiệm làm chủ của mình đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng một cách đồng bộ của nhiều thành tố, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, với chức năng quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Trước tình hình thực tế đang có những diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay thế lực thù địch muốn lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng vẫn chứng minh được tính đúng đắn, khoa học của nó. Điều này càng được thể hiện rõ qua thực tiễn thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua.
Thiếu tướng, GS. TS TRỊNH VĂN THANH
Hiệu trưởng Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Nguồn: http://hvctcand.edu.vn/
0 Nhận xét