Giá trị và ảnh hưởng to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với Đảng, với dân tộc Việt Nam và quốc tế được tạo nên bởi nhiều nhân tố, trong đó phải nói tới phong cách làm việc của Người. Đó là phong cách làm việc mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà khoa học chân chính, thể hiện rõ sự thống nhất biện chứng giữa tính chính trị - giai cấp, tính khoa học, vừa thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của nhà văn hóa lớn.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh dựa trên nguyên tắc "bất biến" là mọi quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc phục tùng tổ chức, đoàn thể cách mạng. Bởi thế, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng của một vĩ nhân, bậc "Đại trí, đại nhân, đại dũng", với 24 năm liền trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta nhưng lại không xa lạ, khác thường, mà là cái mọi người cán bộ lãnh đạo có thể học tập và làm theo. Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh được thể hiện qua tư tưởng và thực tế làm việc của Người, nhưng có nhiều cái tuy không phải là "bí ẩn" nhưng chúng ta chưa biết hết được về phong cách làm việc của Người. Vì thế, những kết quả nghiên cứu về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh rất cần được tiếp tục bổ sung, phát triển.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách thức làm việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là quần chúng nhân dân. Để đạt mục tiêu lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã tác động vào quần chúng nhân dân bằng một tác phong rất sâu sát, với cách thức phù hợp để phát huy cao nhất vai trò của họ. Cách làm việc này bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân lãnh tụ và quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin và từ phẩm chất đạo đức cách mạng trọn đời vì dân của Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc"l. Người nhấn mạnh: "Cách làm việc, cách tổ chức... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng"2. Để có phong cách làm việc sát quần chúng, hợp quần chúng, Người yêu cầu cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc làm việc với quần chúng, nắm tâm tư nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của họ. Đồng thời phải tin yêu tôn trọng quần chúng, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình xây dựng của quần chúng; không chỉ giáo dục mà còn phải học hỏi quần chúng và nêu gương cho quần chúng noi theo. Người nhấn mạnh: "Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng"3, "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"4. Trong cách làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình chất lượng quần chúng, phân loại các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc cho hiệu quả, mặt khác phải nắm rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của dân chúng là "họ hay so sánh" và họ so sánh đúng vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì thế, "Người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh"5. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ phải phê phán và đấu tranh khắc phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh. Người yêu cầu các đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít.
Hồ Chí Minh không chỉ nói, viết để giáo dục cán bộ về phong cách làm việc sát quần chúng, hợp quần chúng mà Người đã thể hiện phong cách đó một cách mẫu mực để mọi người học tập và làm theo. Thực tế cho thấy, nhờ phong cách làm việc sát hợp quần chúng mà Hồ Chí Minh đã "đưa chính trị vào giữa dân gian", hòa mình với quần chúng để nghe được những điều quần chúng nói, thấu hiểu quần chúng để lãnh đạo họ.
Hồ Chí Minh có phong cách làm việc thật sự dân chủ, tôn trọng tập thể. Thực hiện dân chủ, tôn trọng tập thể là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của đảng kiểu mới. Đây là điều mà Hồ Chí Minh đã nói nhiều và đã thực hành trong quá trình làm việc với quần chúng, với cấp dưới, với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể cách mạng. Theo Người, trong công tác lãnh đạo, quản lý mà thực hành được dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến của mọi người thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để giải quyết thắng lợi mọi nhiệm vụ. Trong suốt quá trình công tác, Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về việc tôn trọng tập thể, phục tùng các quyết định của tổ chức, luôn tôn trọng ý kiến của mọi người, không phân biệt chức vụ cao thấp. Trước khi quyết định vấn đề gì, Người đều hỏi lại cẩn thận, chu đáo những người và cơ quan đã giúp mình chuẩn bị công việc. Người đã sớm cảnh báo về hiện tượng mất dân chủ, không tôn trọng tập thể trong công tác của cán bộ, nhất là những người có chức, có quyền cao. Phong cách làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể của Hồ Chí Minh hoàn toàn đối lập với phong cách làm việc theo kiểu áp đặt mệnh lệnh hành chính, độc đoán chuyên quyền, chủ quan duy ý chí, dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan, tùy tiện, tự do vô chính phủ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lối làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể phải đi liền với sự quyết đoán và tinh thần dám chịu trách nhiệm cá nhân. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ dẫn đến cái tệ bừa bãi lộn xộn, vô chính phủ”6.
Một nét đặc sắc trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là làm việc có tính khoa học. Người làm việc tận tâm, tận lực, hầu như không có thời gian nghỉ, làm việc với lòng nhiệt tình cách mạng vì nước, vì dân không với cách làm việc rất khoa học, cụ thể và thiết thực. Ở đây có một sự thống nhất hài hòa trong con người Hồ Chí Minh với cả tư cách của nhà cách mạng và nhà khoa học. Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh đối lập hoàn toàn và xa lạ với lề lối, cách thức làm việc mang nặng cảm tính chủ quan, phất phơ cốt cho hết ngày không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả công việc; làm việc một cách tự do, tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu kế hoạch; thiếu ngăn nắp, luộm thuộm, lề mề, chậm chạp, không coi trọng thời gian, lãng phí sức người sức của; làm việc thiếu cụ thể thiết thực; thiếu tầm nhìn xa trông rộng... Những biểu hiện như thế đã được Hồ Chí Minh chỉ ra và yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải kiên quyết khắc phục sửa chữa.
Để có phong cách làm việc khoa học, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều, chớ gặp sao làm vậy"7 và "việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn"8 . Khi ra các quyết định phải có thông tin đầy đủ và bảo đảm có phương án thực thi hiệu quả, không chủ quan duy ý chí, phải xây dựng thói quen tôn trọng thực tế khách quan, không bóp méo sự thật, làm việc với tầm nhìn xa trông rộng trên cơ sở dự báo khoa học về tình hình có liên quan để tránh bị động bất ngờ và tránh xa vào công việc mang tính sự vụ thiển cận. Người đã phê phán gay gắt những cán bộ mắc "bệnh cận thị". Không thấy xa trông rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ... Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”9.
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rõ ở chỗ khi làm xong một công việc, dù thành công hay thất bại đều có tổng kết rút kinh nghiệm để tiến hành những công việc khác tốt hơn. Người lãnh đạo phải biết sử dụng bộ máy, những người cộng sự, những cơ quan giúp việc một cách khoa học, hiệu quả và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển "phương pháp làm việc biện chứng" - vốn được Người xem là ưu điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác. Với tư cách là nhà khoa học chân chính, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ “con mắt ta nhìn xã hội cũng phải khoa học”10 và trên thực tế, mọi cái nhìn của Người đối với các vấn đề đều ít nhiều mang tính khoa học. Người thường dùng phương pháp so sánh các sự việc, hiện tượng theo thời gian, không gian, tính chất để làm nổi bật vấn đề. Người đã đưa ra những nhận định sâu sắc về những điều ẩn chứa đằng sau các số liệu báo cáo qua những con số cụ thể. Trong bài viết Ý kiến về việc làm và xuất bản loại sách “người tốt, việc tốt” (1968), Hồ Chí Minh có viết: "Các chú sẽ xem bản kê này, Bác đã ghi rõ mỗi ngành, mỗi giới, mỗi địa phương, già, trẻ, gái, trai, miền ngược, miền xuôi, Việt kiều mới về nước... có bao nhiêu người được khen thưởng. Những con số ghi trong này không có ý nghĩa là ngành này, giới này, tỉnh này anh hùng hơn ngành, giới, tỉnh kia. Nơi nào có ít người được khen là do khuyết điểm của cấp lãnh đạo ở đó"11.
Nét đặc sắc nổi bật trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm, nêu gương trước cấp dưới và quần chúng. Người sớm nhận thức sâu sắc rằng: sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạt động của người cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn để vận dụng lý luận một cách phù hợp, sáng tạo, qua thực tế mà bổ sung, phát triển lý luận. Phải phòng chống bệnh giáo điều, xét lại và chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường lý luận. Hồ Chí Minh đã nêu một kiểu mẫu về sự gắn kết chặt chẽ, khoa học giữa lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng thời thể hiện một tấm gương sáng về nói đi đôi với làm và nêu gương cho mọi người học tập, làm theo. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã đánh giá: "Mọi lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói là làm, thường là làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành động"12.
Hồ Chí Minh đã phê phán một số cán bộ chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được và yêu cầu cán bộ, đảng viên nói là phải làm, "nói ít, bắt đầu bằng hành động"13, "tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước"14. Muốn vậy phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm của mình, đồng thời phải hoan nghênh người khác, phê bình mình, phải chống những bệnh hữu danh, vô thực, bệnh hình thức. Về phía tổ chức Đảng, Người chỉ rõ "Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng"15.
Với cương vị, trọng trách của người đứng đầu Đảng và Nhà nước, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng to lớn đến nâng cao chất lượng lãnh đạo và uy tín của Đảng đến tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đến hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Trong tình hình hiện nay, việc đổi mới phong cách làm việc theo tư tưởng và tấm gương về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò "cái gốc của mọi công việc" của đội ngũ cán bộ, trong đó phải nói tới những cố gắng của họ để khắc phục những hạn chế, yếu kém về phong cách làm việc và rèn luyện phong cách làm việc mới theo tư tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh. Phần đông cán bộ có phong cách lãnh đạo ngày càng sâu sát cơ sở, làm việc một cách khoa học, dựa trên trình độ học vấn ngày càng cao và chuyên sâu công việc, năng động sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhiều cán bộ đã thực hành tốt nói đi đôi với làm và nêu gương trước cấp dưới, được quần chúng khen ngợi. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong phong cách làm việc. Đáng lưu ý là có một số ít cán bộ có chức, có quyền cao còn biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, hống hách. Một số cán bộ coi thường tính đảng, tính nguyên tắc trong công việc, lấy yêu cầu năng động, sáng tạo để che đậy cho những việc làm sai trái; một số cán bộ đã biến lối làm việc tập thể, cá nhân phụ trách thành "cá nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm" khi có sai phạm xảy ra. Một số cán bộ lãnh đạo còn làm việc nặng theo kinh nghiệm, cảm tính, thói quen tùy tiện, chưa coi trọng tính khoa học trong làm việc. Một số cán bộ làm việc nhiệt tình nhưng hiệu quả thấp do thiếu tính khoa học, có khi còn gây thiệt hại cho tập thể. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo, đang tồn tại ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mà biểu hiện rõ nhất là ở vấn đề nói và thực hành chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tình trạng này không những làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng mà còn làm cho kỷ cương, phép nước bị coi thường. Thực tế này vừa phản ánh phong cách làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu mới, vừa phản ánh sự yếu kém về năng lực trí tuệ, sự thoái hóa về đạo đức và những khát vọng đam mê quyền lực, lợi ích vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa của một bộ phận cán bộ. Những hạn chế, bất cập về phong cách làm việc của cán bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "chúng ta hoặc ít hoặc nhiều đều mắc phải tư tưởng, tập quán, tác phong của xã hội cũ"16. Mặt khác cán bộ, đảng viên cũng ở trong xã hội mà ra, nhiều điều kiện bảo đảm cho làm việc chưa đáp ứng được, trong làm việc không thể tránh khỏi những yếu kém, hạn chế về phong cách. Song, cần phải thấy rõ nguyên nhân chủ yếu từ phía bản thân người cán bộ, người lãnh đạo cả về trình độ năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, việc tự giáo dục, rèn luyện phong cách mới.
Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, cần tiếp tục đổi mới giáo dục, nâng cao nhận thức về tư tưởng và phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, gắn liền với tiếp tục thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Phải làm cho mọi cán bộ thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng và nội dung yêu cầu của học tập và làm theo phong cách làm việc của Hồ Chi Minh. Từ đó, cụ thể hóa và xác định những yêu cầu cơ bản về phong cách làm việc của từng loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cho phù hợp. Khắc phục kịp thời những biểu hiện nhận thức hời hợt, phiến diện, chỉ thấy phong cách làm việc là do cá tính riêng của từng người và môi trường làm việc quy định; không thấy được mối quan hệ giữa phong cách làm việc với năng lực công tác và phẩm chất chính trị đạo đức, giá trị nhân văn của người cán bộ cách mạng. Cần phải xóa bỏ tư tưởng thần thánh hóa phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, từ đó cho rằng cán bộ không thể làm theo phong cách ấy được. Đồng thời, cũng phải khắc phục nhận thức chỉ thấy phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là phong cách làm việc của một "nhà chính trị chuyên nghiệp" mà không thấy phong cách làm việc của một nhà khoa học chân chính, luôn thống nhất giữa tính đảng, tính chính trị với tính khoa học trong mỗi lời nói, việc làm và quan hệ công tác. Phong cách làm việc của người lãnh đạo không hình thành một cách tự nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Ngày nay đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đang có sự phát triển mới, trình độ dân trí ngày một cao, quan hệ ngày càng rộng rãi, xu thế công khai dân chủ hoá đang được mở rộng, các thành tựu về khoa học công nghệ nhất là về tin học, về điện tử đang được ứng dụng vào đời sống và các quan hệ làm việc. Điều đó, đặt ra yêu cầu cao về phong cách lãnh đạo quản lý của cán bộ, đòi hỏi họ phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững tri thức về con người, biết trao đổi, làm việc với từng đối tượng con người cụ thể một cách thật sự dân chủ, văn hóa. Người lãnh đạo, quản lý phải biết thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác, kịp thời trên cơ sở quán triệt đúng quan điểm giai cấp và nguyên tắc thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học. Để hình thành phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, biết xấu hổ, cắn dứt, giày vò lương tâm vì những hành vi sai trái do phong cách làm việc gây ra đối với người khác. Trong làm việc, người cán bộ phải nêu gương, thể hiện rõ thái độ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp dưới, biết tự trì trích để tiến bộ.
Việc xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý không tách rời với việc đổi mới cơ chế lãnh đạo, quản lý xã hội. Vì thế, cần phải tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế này, trong đó nổi lên là phải tiếp tục phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Giữa các cơ quan, đơn vị cần phải tăng cường phối hợp trong công tác, chủ động thiết lập và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ; khắc phục tình trạng làm việc khép kín, cục bộ, bảo thủ; phân công, phân nhiệm không rõ ràng, chồng chéo, thủ tục rườm rà, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Điều rất quan trọng là trong công tác cán bộ cần phải xem xét, đánh giá phong cách làm việc của cán bộ một cách khách quan, khoa học, góp phần làm cơ sở để cất nhắc đề bạt, luân chuyển, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Hàng năm, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần thống nhất đánh giá thực trạng phương pháp tác phong công tác của cán bộ. Xây dựng kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác cho cán bộ phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ, điều kiện, khả năng và chức trách của cán bộ. Thực hiện tốt chế độ kiểm tra báo cáo, sơ kết tổng kết kinh nghiệm, sớm phát hiện yếu kém, lệch lạc trong phương pháp, tác phong công tác của cán bộ để uốn nắn, khắc phục kịp thời./.
Đại tá PGS,TS. Nguyễn Văn Thế
Học viên Chính trị - Bộ Quốc phòng
Nguồn: Tạp chí Giáo dục chính trị quân sự (2009)
_________
Chú thích
1, 2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t. 5, tr.246, 248, 293, 297, 297.
6, 7, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.505, 239, 257.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr. 257.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.298.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.12, tr.548.
12. Phạm Văn Đồng : Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, H.1990, tr.64-65.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.430.
14, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t. 5, tr.108, 250.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.215.
0 Nhận xét