Ý KIẾN VỀ TÁC PHẨM “HO CHI MINH: THE MISSING YEARS 1919 – 1941” (Hồ Chí Minh – Những năm tháng bị lãng quên 1919 – 1941) CỦA TÁC GIẢ SOPHIE QUINN – JUDGE

07:00 |

 


GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

1. Một số điểm chú ý đầu tiên

Đây là tác phẩm đã được xuất bản tại Mỹ năm 2002 (University of California Press). Có thể nói rằng, cho đến nay, những nhà Hồ Chí Minh học (thực thụ) cả ở trong và ngoài nước Việt Nam không ai là không biết tác phẩm này. Có người biết qua những bài phân tích, những lời giới thiệu, những lời bình phẩm của đồng nghiệp. Có người đọc trực tiếp tác phẩm đó bằng tiếng Anh. Trên nhiều website, tác phẩm này của nữ tác giả Sophie Quinn – Judge đã được giới thiệu, bình luận không ít. Trong nhiều bài báo nghiên cứu Hồ Chí Minh của một số tác giả trong và ngoài nước ta, một số người đã tham khảo, nêu lại ý kiến hoặc trích dẫn nội dung của cuốn sách trên.

Tôi cho rằng, tác phẩm này đã được xuất bản công khai, được bày bán ở các cửa hàng sách, được đặt lên các giá sách thư viện, được đưa vào thư viện điện tử, v.v. Sự hiện diện của tác phẩm này ở Mỹ cũng như ở trên thế giới là điều bình thường khi có ai đó nghiên cứu về Hồ Chí Minh – một nhân vật đặc biệt không những trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn cả trong tiến trình lịch sử thế giới thế kỷ XX.

Tôi chia những tác phẩm của các tác giả nước ngoài (kể cả người gốc Việt Nam) viết về Hồ Chí Minh thành hai loại chủ yếu: (i) loại nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, tuy quan điểm và phương pháp nghiên cứu có khác với những nhà Hồ Chí Minh học của Việt Nam; (ii) loại có cái tâm không lành, có thái độ hằn học, thâm thù, chống cộng, chống sự nghiệp cách mạng Việt Nam, và đương nhiên chống cả Hồ Chí Minh, muốn “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh” như họ đã tuyên bố công khai trên diễn đàn của cái gọi là “Khối 8406”.

Tôi cho rằng, tác phẩm của bà Sophie Quinn – Judge Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 (và nếu kể thêm một người Mỹ nữa có công trình khoa học về Hồ Chí Minh gần đây nhất là William J.Duiker với tác phẩm Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, New York, 2000) là thuộc loại (i) theo sự phân loại trên đây. Năm 2005, trong một lần đến làm việc tại Trường Quản lý nhà nước Kennedy thuộc Đại học Harvard (Mỹ), khi tôi trao đổi ý kiến về hai tác phẩm này với một số giáo sư ở đó thì người ta khen tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 của bà Sophie Quinn – Judge hơn là tác phẩm Ho Chi Minh: A Life của ông William J.Duiker. Bà Sophie Quinn – Judge là nhà nghiên cứu triết học, lịch sử đã có nhiều công trình khoa học liên quan đến Việt Nam (cũng có thể gọi bà là nhà Việt Nam học). Bà đã nhiều lần sang Việt Nam dự hội thảo, trong đó năm 2009 đến Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh dự hội thảo khoa học trong khuôn khổ hợp tác với Viện Triết học của Học viện.

2. Một tác phẩm nhìn chung có giá trị khoa học tốt

2.1. Tốt về nguồn tài liệu được sử dụng

Cái khó nhất trong nghiên cứu Hồ Chí Minh là các nguồn tài liệu liên quan đến bản thân Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh, có rất nhiều “khoảng trống” chưa được biết đến do chưa có tài liệu thật sự xác đáng để minh chứng. Ngay cả một số tác phẩm, tài liệu đã được công bố có liên quan rất nhiều đến tiểu sử Hồ Chí Minh thì cho đến nay nhiều người mới nghi là do Hồ Chí Minh viết chứ chưa chính thức được coi là của Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, đó là các tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (Tác giả Trần Dân Tiên, năm 1948); Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ (Chưa rõ tác giả, năm 1924. Trong lần bổ sung Hồ Chí Minh Toàn tập sắp tới, những người sưu tầm đang định đưa vào toàn văn, coi như là văn bản chính thức do Hồ Chí Minh viết, không để phần Phụ lục như bộ Hồ Chí Minh Toàn tập hiện thời nữa); Vừa đi đường vừa kể chuyện (Tác giả T.Lan), v.v.

Vì thế, hiện có không ít “câu chuyện” về Hồ Chí Minh không biết đâu mà lần; và tôi cho rằng, nhiều chứng cứ người viết đưa ra chưa xác đáng, cho nên chưa thể tin cậy được. Trong số đó là ý kiến của Phó giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc hiện đã nghỉ hưu) với bài viết tương đối dài đăng trong Tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Có người dịch là Vòng quanh Đông Nam Á) số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về mối quan hệ “vợ chồng” Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh. Chính từ bài viết này của Hoàng Tranh mà rất nhiều người nghiên cứu trên thế giới đã viết theo và dần dần cứ loang ra theo kiểu “vết dầu loang”. Trong tác phẩm này của mình, có vẻ cẩn trọng hơn, bà Sophie Quinn – Judge đề cập thoáng qua, và dường như “câu chuyện” này không phải là chủ đề ưu tiên[1].

Nhìn chung, Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 (Hồ Chí Minh: Những năm tháng bị lãng quên 1919 – 1941; có người dịch là Hồ Chí Minh: Những năm bị mất tích 1919 – 1941 hoặc Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến 1919 – 1941) có điểm mạnh nhất là dựa trên rất nhiều tài liệu khai thác được từ nhiều nguồn lưu trữ, đặc biệt là lưu trữ tại Pháp và Nga. Tài liệu nhiều ở Pháp là vì Hồ Chí Minh đã có một thời gian sống và hoạt động yêu nước, cách mạng ở Pháp (gần 10 năm – không liên tục). Khối lượng tài liệu từ các báo cáo của mật thám Pháp theo dõi Nguyễn Ái Quốc khá nhiều và rất tỷ mỉ. Những tài liệu liên quan đến Hồ Chí Minh cũng có rất nhiều ở kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô (đặt tại thủ đô Mátxcơva), phông Quốc tế Cộng sản. Sau này, khi Liên Xô không còn thì kho lưu trữ đó được mở cửa rộng hơn cho bạn đọc; phông Quốc tế Cộng sản liên quan đến các tài liệu về Hồ Chí Minh được đặt tên mới là phông Lịch sử Chính trị-xã hội. Hồ Chí Minh đã hoạt động ở Liên Xô từ mùa hạ năm 1923 và gần một năm sau đó chính thức trở thành một cán bộ của Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản từ tháng 4 năm 1931. Do đó, các báo cáo, thư từ, các tài liệu khác liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và liên quan đến Hồ Chí Minh được lưu trữ khá nhiều ở đấy. Hơn nữa, công tác lưu trữ ở Liên Xô có từ khá sớm, được bảo đảm tốt trên một cơ sở khoa học.

Tác giả của cuốn sách không những chủ yếu dựa vào tài liệu lưu trữ mà còn đối chiếu với nhiều tài liệu khác, trong đó có cả các sách, bài báo nghiên cứu của Việt Nam.

Công bằng mà nói, toàn bộ những tài liệu mà tác giả Sophie Quinn – Judge sử dụng, biểu lộ ra trong tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 theo tôi và nhiều người nghiên cứu Hồ Chí Minh ở Việt Nam thì không có gì mới. Không ít lần, trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước của Liên Xô và Việt Nam, nhiều cán bộ của Việt Nam đã sang khai thác nguồn tài liệu này. Nhưng, trước đây, do cơ chế gần như “đóng” từ phía Liên Xô đã không cho phép các cán bộ Việt Nam khai thác được gì nhiều trong kho tư liệu đó. Không riêng gì đối với Việt Nam mà Liên Xô còn áp dụng chung cái cơ chế “đóng” này cho tất cả những ai đến khai thác tài liệu lưu trữ ở đây.

Liên Xô tan rã đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Một cơ chế “mở” đối với kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản đã được thực thi. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới (trong đó có bà Sophie Quinn – Judge) phần thì nhanh chân hơn, phần thì nhạy cảm thông tin hơn, phần thì nhiều tiền hơn đã đến kho lưu trữ Mátxcơva trước những cán bộ Việt Nam để khai thác những tài liệu, trong đó có những tài liệu về Hồ Chí Minh mà chưa từng được ai công bố.

Năm 1993, theo tôi được biết, có ít nhất hai đoàn Việt Nam sang khai thác những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tại kho lưu trữ Mátxcơva. Một đoàn của Cục lưu trữ thuộc Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một đoàn của Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995 Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, mã số KX.02 (Chương trình này do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì, Giáo sư Viện trưởng Đặng Xuân Kỳ làm Chủ nhiệm).

Năm 2006, trong một lần đến thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, ông S.V.Xtépashin (Tổng Kiểm toán Liên bang Nga) đã có ấn tượng rất sâu sắc về những tư liệu, hiện vật tại Bảo tàng. Theo đề nghị của S.V.Xtépashin, trong dịp Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn châu Á – Thái Bình Dương (APEC) từ ngày 12 đến ngày 19-11-2006 ở Hà Nội và nhân đó thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Liên bang Nga Vlađimia Vlađimirôvích Putin đã trao cho Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết bộ phim tài liệu “Tên Người là Hồ Chí Minh”, nhiều bản sao tài liệu về Đảng Cộng sản Việt Nam và về Hồ Chí Minh từ kho lưu trữ của Liên bang Nga.

Gần đây nhất là vào năm 2006, Đoàn cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh thuộc Bộ Văn hoá – Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã dành ra một tháng sang sưu tầm tài liệu tại Kho lưu trữ Lịch sử Chính trị-xã hội Liên bang Nga. Đoàn đã sưu tầm được khoảng 1000 trang tài liệu về Hồ Chí Minh. Đó là những bức thư, các bản báo cáo, bản thảo, bút tích, nhiều bài viết của Hồ Chí Minh những năm 1923 – 1952 chủ yếu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Nga; những bài phát biểu của Hồ Chí Minh trên nhiều diễn đàn quốc tế; không ít giấy tờ cá nhân liên quan đến hoạt động của Hồ Chí Minh những năm 1922 – 1938 (thẻ dự các Đại hội Đảng Cộng sản Pháp, Đại hội Quốc tế Cộng sản, Đại hội Quốc tế Thanh niên, thị thực nhập cảnh nước Nga, hộ chiếu, một số bản khai lý lịch, v.v.). Có cả những đoạn phim tư liệu ghi dấu ấn của Hồ Chí Minh dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Quốc tế nông dân… Trong số những tài liệu sưu tầm được lần này, có cả những tài liệu đã có được từ những lần trước của những Đoàn sưu tầm các lần trước.

Nhưng, có tài liệu trong tay là một chuyện, còn bình luận về chúng, viết sách, viết bài nghiên cứu rồi công bố những tài liệu liên quan đến Hồ Chí Minh thì lại là một chuyện khác. Do nhiều nguyên nhân, các nhà Hồ Chí Minh học của Việt Nam không làm được cái việc như bà Sophie Quinn – Judge đã làm là đưa những vấn đề của Hồ Chí Minh trong những năm tháng còn ít được nhiều người biết đến 1919 – 1941 (phần được phản ánh trong tài liệu lưu trữ) lên từng trang giấy và cho xuất bản một cách công khai như trong cuốn sách này.

2.2. Tốt về cái tâm và một số nội dung nêu ra của người nghiên cứu

Đọc cuốn sách này, tôi thấy được phần nào cái tâm của tác giả Sophie Quinn – Judge, không như một số tác phẩm khác, nhất là các tác phẩm của một số người gốc Việt Nam với lời lẽ hằn học, chửi bới, bịa đặt, cố tình xuyên tạc Hồ Chí Minh (Gần đây nhất, những kẻ hằn học gốc Việt Nam ở ngoài nước do Nguyễn Hữu Lễ đứng đầu còn dựng phim DVD Sự thật về Hồ Chí Minh với dụng ý không tốt). Toàn bộ cuốn sách đã theo đúng lời tác giả viết: “Mục đích của nghiên cứu này không phải là để huỷ hoại thanh danh Hồ Chí Minh, mà chỉ là để làm rõ sự thực những gì ông đã làm trong thời kỳ ông làm việc cho Quốc tế III” (tr. 7 của bản dịch). Ở đây, tôi chưa bàn đến phương pháp nghiên cứu của bà Sophie Quinn – Judge và tôi không bàn đến tình cảm của người nghiên cứu đối với dân tộc, con người Việt Nam, trong đó có Hồ Chí Minh. Tác giả của cuốn sách đã cố gắng giữ một thái độ khách quan (cái đầu lạnh) khi trải những ý kiến của mình ra những trang viết. Đương nhiên, ở đây không phải là không có hạn chế mà tôi sẽ viết ở mục dưới.

Từ cái tâm đó cộng với nguồn tài liệu lưu trữ phong phú (nguồn chủ yếu) có đối chiếu với các nguồn khác, trong tác phẩm của mình, tác giả đã đúng khi nêu rõ những vấn đề sau đây của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian từ năm 1919 đến năm 1941:

– Khẳng định Hồ Chí Minh[2] ra đi năm 1911 và hoạt động ở nước ngoài là vì mục đích yêu nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Đạt được kết quả như thế này trong nghiên cứu là phản ánh đúng sự thật và là đáng quý lắm, vì vẫn còn không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh ra đi không phải là để tìm con đường cứu nước; rằng, Hồ Chí Minh đi theo con đường cách mạng vô sản, theo Quốc tế Cộng sản là vì ngẫu nhiên hoặc vì bất mãn khi bị bác  đơn vào học ở Trường Thuộc địa…

– Nêu lên được những sự kiện lịch sử qua đó phản ánh đúng một cách cơ bản và tương đối đầy đủ quãng đời đầy gian khổ, hoạt động tích cực của Hồ Chí Minh trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc quốc tế từ năm 1919 đến khi Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc đầu năm 1941.

– Nêu lên một bức tranh với những nét cơ bản, đúng sự thật về mối quan hệ của Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản (rõ nhất là trong quan hệ với các đồng chí ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản). Đây là mối quan hệ không mấy suôn sẻ, nhưng phản ánh được bản lĩnh, sự khéo léo của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian đặc biệt trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, nhất là quãng thời gian 1934 – 1938 mà trong một bức thư ký tên là Лин, gửi cho một đồng chí cấp cao của Quốc tế Cộng sản đề ngày 6-6-1938, Hồ Chí Minh gọi những năm đó là những năm Người ở vào “tình cảnh đau buồn”.

– Nêu lên được mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với các đồng chí trong tổ chức mà Hồ Chí Minh tham gia, qua đó người đọc cũng thấy được phần nào nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh (đối với Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, đối với các đồng chí ở Pháp, ở Liên Xô và các nước khác, v.v.).

– Nêu lên các sự kiện, qua đó người đọc thấy rõ công lao và những đóng góp thực sự tích cực của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, các phong trào cách mạng ở Việt Nam và đối với một số phong trào cách mạng thế giới.

– Với các tài liệu có trong tay, tác phẩm này ken dày, ngồn ngộn những sự kiện lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh đã được phản ánh. Điều này là quan trọng và thật sự có giá trị đối với những người nghiên cứu để tham khảo. Trừ một số không nhiều những sự kiện còn chưa chính xác và một số sự kiện còn chưa chắc chắn, cần được xác minh thêm, còn tuyệt đại đa số các sự kiện được đưa vào cuốn sách là đáng tin cậy.

3. Một số hạn chế

3.1. Có một số nhận định không đúng

Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu phản ánh về Hồ Chí Minh đều đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ. Những tài liệu ở các kho lưu trữ thật đáng quý. Nhưng, dù chúng đáng quý như thế nào đi chăng nữa thì cũng cần được thẩm định, được nhận thức một cách đúng đắn qua tư duy của người nghiên cứu. Những tài liệu lưu trữ là những chứng cứ, song những chứng cứ ấy bao giờ cũng bị chế định bởi hoàn cảnh lịch sử và muôn vàn yếu tố khác nữa. Nó chưa hoàn toàn là sự thật. Do vậy, mới có tình trạng là tài liệu cùng một nguồn nhưng nhận thức, đánh giá của một số người lại trái ngược nhau.

Vì một số người, trong đó có tác giả cuốn sách này – bà Sophie Quinn – Judge – không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, sa vào “khách quan phiệt”, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng (Trong hồ sơ tài liệu Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935, có ghi Nguyễn Thị Minh Khai rồi mở ngoặc đơn là “Vợ Quốc”. Thực ra, nghiên cứu chung về hoàn cảnh lúc đó và theo lời kể của một số nhân chứng lịch sử, thì đây chỉ đơn thuần là một sự gán ghép, nhiều người muốn “làm mối” cho hai người. Giữa Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã sắp đi đến hôn nhân rồi mà những người dự Đại hội không biết. Cả Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều không dự Đại hội I ở Macao).

Cũng như thế, tác giả cuốn sách đã nhận định rằng: “Sự thực là mặc dù cuộc đời ông trong giai đoạn này đầy rẫy những sự nguy hiểm, thì một trong những công việc mà ông cũng thường xuyên phải làm là ngồi gõ thật nhiều các bản báo cáo với mục đích thuyết phục người Nga cung cấp thêm nhiều tiền cho các hoạt động của ông” (tr. 7 của bản dịch); “Việc thiếu tính không kiên định về lý tưởng mà một số người có thể cho là xảo quyệt là một đặc điểm đã giúp Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh sống sót trong những năm tháng ở Quốc tế Cộng sản” (tr. 34 của bản dịch), v.v.

Tác giả của cuốn sách nhận định không đúng về cái gọi là “chi nhánh của Đảng Cộng sản Trung Quốc” và cho rằng, tổ chức này “đã hiện hữu tại miền nam Việt Nam trong những năm 1927 – 1928. Vai trò của tổ chức này đối với sự phát triển của cộng sản Việt Nam vẫn chưa được tìm hiểu, nhưng căn cứ theo tên gọi của nó – Uỷ ban Nam Kỳ – Cambốt (trong bản dịch tiếng Việt Nam của Hoài An, có một số trang gọi là “Uỷ ban Nam Dương” – MQT lưu ý) – chúng ta có thể đoán được rằng, nó đã có ảnh hưởng ngay từ đầu trong việc đưa ra khái niệm của một phong trào cộng sản Đông Dương thống nhất chứ không phải là một Đảng Cộng sản Việt Nam thuần tuý” (Tổ chức này được bà Sophie Quinn – Judge viết ở nhiều trang, nhưng điển hình là ở tr. 182 của bản dịch). Sự thực là trong lịch sử hiện đại Việt Nam, không có tổ chức này. Tôi cho rằng, rất có thể là tác giả đã lầm tổ chức An Nam Cộng sản đảng ở Nam Kỳ lúc bấy giờ – có quan hệ với bộ phận An Nam Cộng sản đảng ở Trung Quốc – rồi cho rằng tổ chức này là chi nhánh của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Như vậy, tôi thấy đây là lầm lẫn lớn và rất tai hại đối với bạn đọc.

Có không ít những đoạn viết toát lên ý cho rằng Hồ Chí Minh là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải là nhà lý luận.

Những nhận định không chính xác trong cuốn sách, xét theo quan điểm của tôi, là không ít, đặc biệt là ở phần Tổng kết. Phần này ngắn, chỉ hơn 4 trang trong tổng số 186 trang của bản dịch, nhưng ken dày những nhận định không đúng.

Xin nêu một số đoạn.

Tác giả viết: “Sự thất bại trong chiến dịch của người Việt tại Hội nghị hoà bình Pari năm 1919 đã chuyển sự chú ý của những người quốc gia về phía nước Nga” (tr. 182 của bản dịch); “Những mâu thuẫn ban đầu về hệ tư tưởng bên trong tổ chức cộng sản Việt Nam đã tiếp tục diễn ra trong suốt sự nghiệp chính trị của Hồ. Trong khi đối với phương Tây, những nỗ lực của Hồ sau Thế chiến thứ hai nhằm tạo ra hình ảnh của mình như một người theo chủ nghĩa quốc gia đã gặp phải những nghi ngờ thì bên trong nội bộ Đảng Cộng sản Đông Dương thái độ thiếu thành tâm với “chủ nghĩa cộng sản vô sản” đã tiếp tục bị xem như là một nhược điểm của ông” (tr. 183 của bản dịch).

Ở đây, tác giả của cuốn sách này lại dựa vào những tài liệu do Trần Ngọc Danh viết, mà Trần Ngọc Danh là người như thế nào thì những người nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đều biết khá rõ.

Tác giả viết tiếp: Hồ Chí Minh “đã ăn ở với những phụ nữ trong nhiều giai đoạn, thoả hiệp và lũng đoạn những đảng phái quốc gia khác. Ông đã không luôn là người thẳng thắn. Trong rất nhiều trường hợp, ông đã cho rằng, thành thật về lập trường chính trị là một việc dại dột. Lòng tin của ông về chủ nghĩa cộng sản thì khó mà lường được bao sâu” (tr. 185 của bản dịch); “Điều trớ trêu là trong những năm 1990, sau khi những đảng cộng sản tại Đông Âu đã bị hất khỏi quyền lực, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ nguyên vị trí chính thống của mình bằng cách nhận rằng, họ đại diện cho “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Một tài liệu xuất bản năm 1995 về Tư tưởng Hồ Chí Minh của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa đấy như là một tiến triển mới của học thuyết Mác – Lênin. Nhưng khẳng định này đã gặp phải một số ý kiến diễu cợt vì rất nhiều người Việt Nam thừa hiểu rằng Hồ Chí Minh đã không để lại bất cứ một học thuyết nào trên giấy tờ” (tr. 185 của bản dịch).

Vân vân và vân vân.

3.2. Vẫn còn nhiều “khoảng trống”, còn có sự phân tích chưa sâu, chưa đủ minh chứng lịch sử

Có nhiều vấn đề chưa được tác giả cuốn sách tập trung phân tích kỹ, phân tích sâu. Những vấn đề đó, theo tôi, là những điểm nhấn trong cuộc đời của Hồ Chí Minh trong những năm hoạt động ở Quốc tế Cộng sản. Đó là những sự kiện mà Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng và bản lĩnh chính trị của mình, đặc biệt là hoạt động của Hồ Chí Minh trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tích cực chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam so với những quan điểm sai lầm, tả khuynh, biệt phái có tính chất chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội VI Quốc tế Cộng sản cuối năm 1928 đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có những văn bản chỉ đạo cụ thể đối với cách mạng Việt Nam, v.v.

Tác giả của cuốn sách, như tôi đã đề cập ở trên, chủ yếu dựa vào tài liệu lưu trữ, triệt để dùng phương pháp mà tôi tạm gọi là “khách quan phiệt” (hay chủ nghĩa khách quan), ngoài mặt tốt, còn có mặt thứ hai của nó là chưa hiểu rõ bề sâu văn hoá, đặc tính con người, đặc biệt là con người Hồ Chí Minh, con người đặt trong muôn vàn cái chế định của hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, con người phương Đông, con người Việt Nam, do đó có một số hạn chế vừa chưa “lấp đầy” khoảng trống để hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh vừa có lập luận chưa có sức thuyết phục về một số sự kiện có liên quan đến đời tư của Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với hai người phụ nữ mà tác giả cuốn sách cho là vợ của Hồ Chí Minh: Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Thị Minh Khai.

Nhân dịp bày tỏ ý kiến về cuốn sách Ho Chi Minh: The Missing Years 1914 – 1941 của tác giả Sophie Quinn – Judge, tôi muốn đề cập thêm về vấn đề này. Hiện đang có một số người có thể do vô tình hay cố ý, “gây nhiễu thông tin” về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh[3]. Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu nhiều nhất.

Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh đến thăm em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà”[4].

Tháng 1 năm 1947, Hồ Chí Minh viết trong bức thư­ chia buồn khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nư­ớc Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc”[5].

Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mư­ời của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt đư­ợc mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”[6].

Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Hồ Chí Minh nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”[7]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, có đề nghị Hồ Chí Minh lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Hồ Chí Minh thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[8].

Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Chưa, chưa có tài liệu nào thuyết phục người đọc được cả.

Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức cả. Nếu Hồ Chí Minh có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Hồ Chí Minh đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy có lúc Hồ Chí Minh khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.

Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Hồ Chí Minh không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống hồ Hồ Chí Minh lại là một người nổi tiếng, Hồ Chí Minh là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả.

Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai bà là người Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả ông Hoàng Tranh (người Trung Quốc), một chuyên gia nghiên cứu Hồ Chí Minh trong mối quan hệ với Trung Quốc, trong một bài viết của mình, đã đề cập về cuộc sống vợ chồng Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh, nhưng tôi đã đọc rất kỹ bài viết này thì thấy rằng, lập luận và những chứng cớ mà Hoàng Tranh nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại viết theo Hoàng Tranh.

Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ Lịch sử Chính trị-xã hội của Liên bang Nga. Vì một số người không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng.

Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt “tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu, cho rằng Hồ Chí Minh  chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí Minh chỉ coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7 bà vợ và nhiều con như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí Minh đến thăm. Thật sự không có. Tăng Tuyết Minh chỉ là một người phụ nữ đóng giả vợ của Hồ Chí Minh khi Hồ Chí Minh hoạt động ở Trung Quốc quãng thời gian cuối năm 1924 – 1927 mà thôi.

Tuy tác giả Sophie Quinn – Judge, như tôi đã viết ở trên, chỉ đề cập thoáng qua hai người “vợ” của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years 1914 – 1941, đối với tâm lý của người nước khác, đặc biệt là người châu Âu thì không có vấn đề gì lớn, nhưng điều này đối với tâm lý người Việt Nam là quá nhạy cảm, cho nên tôi xin đôi điều đề cập lại cho rõ hơn mà thôi.

Cuốn sách Ho Chi Minh: The Missing Years 1914 – 1941 của tác giả Sophie Quinn – Judge thực sự bổ ích cho những ai quan tâm nghiên cứu Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với những học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Hồ Chí Minh học ở Việt Nam.

Những ý kiến của tôi trên đây về cuốn sách có thể đúng, có thể không đúng, nhưng tôi cứ mạnh dạn nêu lên, mong được thông cảm.

Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2009

Người viết

MẠCH QUANG THẮNG


[1] Trong Chương 0 của cuốn sách này với cái tên là Giới thiệu, tác giả Sophie Quinn-Judge viết: “Ông Hồ thực sự không có cuộc sống của nhà tu hành, ông có hai mối quan hệ với phụ nữ được chứng minh bằng các tài liệu chúng tôi tìm được trong khoảng thời gian hoạt động mà cuốn sách này đề cập đến”. Bà Sophie Quinn-Judge viết chú thích số 24 cho rõ thêm đoạn nội dung này như sau: “Người phụ nữ thứ nhất là “Tuyết Minh”, một cô gái sinh viên hộ lý người Quảng Châu, người bắt đầu cuộc sống vợ chồng với Hồ Chí Minh từ tháng 10 năm 1926. Bà không được đề cập trong Chương ba của cuốn sách này vì mối quan hệ đã chấm dứt ngay khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Trung Quốc năm 1927 (Xem AOM, SPCE 367, Renseignements fournis par Lesquendieu au sujet de Tuyet Minh, femme chinoise, maitresse de Nguyen Ai Quoc, Hanoi, 28/10/1931). Người phụ nữ thứ hai là Nguyễn Thị Minh Khai, có tầm quan trọng chính trị lớn hơn người trước”.

 

[2] Hồ Chí Minh có nhiều tên gọi. Trong bài này, để cho thuận tiện, tôi xin dùng một tên chung cho tất cả các thời kỳ, giai đoạn là Hồ Chí Minh.

[3] Năm 2005, có một đồng nghiệp ở Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng) nói với tôi rằng, trên mạng internet có rất nhiều bài viết xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tôi nói lại rằng, việc xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh không phải đến bây giờ người ta mới làm, mà đã diễn ra từ lâu rồi.

Để làm cho người ta hiểu một cách đúng đắn về Hồ Chí Minh, tôi nói với đồng nghiệp của tôi rằng, cách tốt nhất là nên xuất bản cuốn sách viết về tiểu sử Hồ Chí Minh.

Tôi biết rằng, vào các năm 1995, 1996, Chương trình khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1991 – 1995 KX.02 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ lúc đó là Viện trưởng Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm đã có một đề tài nghiên cứu, biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh do Giáo sư Song Thành làm Chủ nhiệm. Sản phẩm chính của đề tài này là bản “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” đã được nghiệm thu; nhưng vì nhiều lý do, mãi cho tới lúc đó, năm 2005, chưa được xuất bản.

Ý kiến của tôi là như vậy. Sau đó một thời gian, Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX cho thẩm định lại bản thảo công trình này để xuất bản thành sách. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX giao cho Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) cùng với Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương giải quyết vấn đề này. Sở dĩ như vậy là vì đây là công trình khoa học thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh quản lý mà Viện này sau đó đã sáp nhập cùng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Theo đề nghị của Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 19-1-2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX đã ra Quyết định số 156-QĐ/TW thành lập Hội đồng thẩm định và xuất bản tác phẩm “Hồ Chí Minh – Tiểu sử”.

Cuốn sách “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” do Nhà xuất bản Lý luận chính trị (nay là Nhà xuất bản Chính trị – Hành chính) xuất bản đầu tiên theo Giấy phép xuất bản số 48-2006/CXB 01-01/LLCT ngày 12-1-2006 với số lượng 3 000 cuốn, 758 trang khổ 15 cm x 22 cm, bìa cứng, nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006. Đây là cuốn sách mới nhất về tiểu sử Hồ Chí Minh được viết một cách công phu, tương đối chi tiết tiếp nối cuốn tiểu sử tóm tắt về Hồ Chí Minh trước đây do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương biên soạn và được Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản lần đầu tiên năm 1970.

[4] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74.

[5] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172.

[7] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151.

[8] Như trên.

Xem thêm…

Cống hiến to lớn của Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

07:58 |

 

PGS.TS Văn Tất Thu

Bài viết này nêu bật những cống hiến to lớn của Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

1. Từ bỏ quan trường, ủng hộ Cách mạng tháng Tám

Cụ Phan Kế Toại sinh năm 1889 trong một gia đình quan lại ở thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội). Cụ học chữ Nho từ nhỏ, lớn lên ra Hà Nội học trong một trường Tây, sau đó vào học tại trường Hậu Bổ. Từ năm 1911 đến 1914 Cụ được chính quyền bảo hộ Pháp trao học bổng du học tại trường Hành chính thuộc địa Paris. Thời gian du học ở Paris Cụ may mắn được gặp Bác Hồ, Cụ hỏi: "Theo ý anh tôi có nên học ở trường này không?"; Bác nói ngay "Tôi cũng muốn xin vào học nhưng Tây không cho. Tôi muốn có kiến thức để sau này làm được việc cho đất nước. Tôi nghĩ rằng, anh nên theo học. Sau này nếu làm được việc gì tôi sẽ tìm anh". Ý tưởng học để giúp dân, cứu nước của Bác Hồ đã ảnh hưởng lớn đến con đường học hành và sự nghiệp của cụ Phan Kế Toại sau này.

Năm 1914, Cụ về nước và làm các chức quan từ Tri huyện đến Tổng đốc của các tỉnh: Hà Tây, Tuyên Quang, Kiến An, Hà Đông, Quảng Yên, Nam Định, Lạng Sơn, Phúc Yên, Bắc Ninh, Thái Bình. Bất kỳ ở đâu, làm gì Cụ cũng lấy chữ "liêm, chính", "an dân", đạo nghĩa nhân làm gốc. Cụ được Chính phủ Trần Trọng Kim bổ nhiệm giữ chức "Khâm sai đại thần" Bắc Bộ. Năm 1944, khi đương chức Tổng đốc Thái Bình, Cụ đã trao một tín phiếu 500 đồng bạc Đông Dương cho ông Nguyễn Công Liệu là cán bộ Việt Minh lúc đó làm Khâm sai Bắc Bộ để ủng hộ cách mạng. Tháng 7/1945, Cụ xin từ chức nhưng phải đến ngày 17/8/1945 Cụ mới được chấp nhận. Chính trong thời gian này, Cụ có điều kiện góp phần quyết định vào việc hạn chế đổ máu khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra tại Hà Nội. Mười giờ đêm ngày 17/8/1945, trước khi rời Bắc Bộ phủ Cụ đã ra lệnh cho một bảo an binh là Nguyễn Sỹ Là "Tuyệt đối không được nổ súng và phải mở cửa ngay khi quân cách mạng tiến công", hành động có ý nghĩa lịch sử ấy đã thể hiện tấm lòng vì dân, vì nước của Cụ.

Các thành viên Hội đồng Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc, năm 1951.

Trong ảnh, hàng ngồi từ trái qua phải: Linh mục Phạm Bá Trực, cụ Phan Kế Toại, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Tôn Đức Thắng, đồng chí Hoàng Đạo Thúy.
(Ảnh tư liệu BTLSQG)

2. Theo Bác Hồ, hết lòng vì sự nghiệp kháng chiến kiến quốc

Với tầm nhìn xa trông rộng, tài đức dùng người và thực hiện chủ trương đại đoàn kết, phát huy sức mạnh dân tộc cho cuộc kháng chiến kiến quốc lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời các nhân sĩ, trí thức yêu nước tham gia mặt trận Liên Việt và Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho người mang thư mời cụ Phan Kế Toại lên chiến khu Việt Bắc tham gia Chính phủ.

Nhận được thư, Cụ vô cùng cảm kích, nói với con trai mình "Cụ Hồ quả đúng là con người đức độ trước sau như một" và cùng gia đình lên chiến khu Việt Bắc.
Tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 09/11/1947, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội đồng đã nhất trí cử Cụ Phan Kế Toại giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thay Cụ Tôn Đức Thắng nhận công tác khác. 

Từ đầu năm 1948, cơ quan Bộ Nội vụ chuyển đến đóng tại thôn Yên Thượng, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời điểm này cơ quan Bộ chỉ có khoảng 20 cán bộ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ bao gồm Văn phòng và các Nha. Bộ Nội vụ được Chính phủ và Hồ Chủ tịch giao kiêm nhiệm phụ trách rất nhiều công việc nội chính khác nhau, từ xây dựng, bảo vệ, theo dõi tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền, bảo vệ an ninh, cho tới phụ trách tản cư, phụ trách Hoa kiều và kiều vụ, công tác thông tin tuyên truyền, vấn đề hàng binh và trại giam.v.v... Đó là các lĩnh vực công tác phức tạp, có nội dung và tính chất khác nhau, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm quản lý hành chính.  Trên cương vị Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cụ Phan Kế Toại đã đề ra các giải pháp quan trọng để kiện toàn tổ chức và hoạt động của Bộ. Từ giữa năm 1948, Bộ Nội vụ bổ sung thêm một số cán bộ cho Nha Công chức Kế toán, Nha Pháp chính. Nhờ đó công tác của cơ quan Bộ đã được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả hơn.

Năm 1949, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cụ Phan Kế Toại, Bộ Nội vụ đã nghiên cứu cải tổ toàn bộ cơ cấu tổ chức và cơ chế phân công nhiệm vụ, vận hành công việc của cơ quan Bộ, lấy việc kiện toàn Bộ làm thí điểm cho việc kiện toàn cơ cấu và cơ chế vận hành của các bộ khác theo yêu cầu của Chính phủ. Từ tháng 5/1949 toàn bộ cơ quan Bộ Nội vụ được tổ chức lại theo một cơ chế điều hành công việc mới, hợp lý hơn. Tất cả công việc của Văn phòng và các nha sự vụ đều được gộp lại và phân công cho các phòng. Cùng với việc tổ chức lại cơ quan Bộ, cách thức làm việc của mỗi cán bộ cơ quan Bộ Nội vụ cũng được đổi mới, chuẩn hóa và chính quy hơn. Nhờ có sự cải tiến về tổ chức và cơ chế điều hành, công việc của cơ quan Bộ Nội vụ thực hiện hiệu quả hơn. Mô hình tổ chức của Bộ Nội vụ được phổ biến và áp dụng cho nhiều bộ khác trong Chính phủ.

Từ đầu năm 1947 đến giữa năm 1950 là giai đoạn cực kỳ khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bộ Nội vụ đã tổ chức thành công di tản, di chuyển chiến lược, đảm bảo giữ gìn và duy trì tốt cơ sở vật chất tối quan trọng cho toàn bộ cuộc kháng chiến. Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác sơ tán, bảo đảm an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não của Trung ương trong chiến khu Việt Bắc. Đặc biệt, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, Bộ Nội vụ, đứng đầu là cụ Phan Kế Toại đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân các cấp, góp phần quan trọng vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. 

Ngay từ buổi đầu thành lập chính quyền cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ công vụ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bộ trưởng Phan Kế Toại đã chỉ đạo nghiên cứu trình Hồ Chủ tịch ký ban hành Sắc lệnh số 188/SL ngày 29/5/1948 quy định về chế độ công chức mới và đặt một thang lương chung cho các ngạch lương và các hạng công chức Việt Nam; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công chức Việt Nam. Các sắc lệnh này là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng một nền hành chính dân chủ, một chế độ công vụ phục vụ nhân dân, một đội ngũ công chức nhà nước thực sự là công bộc của nhân dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 

Ngày 14/3/1950, Bộ trưởng Phan Kế Toại trực tiếp ký ban hành Nghị định số 97-NV/2 và Nghị định số 98-NV/2 quy định về mở một kỳ thi tuyển cán sự hành chính tập sự và tham sự. 

Cũng trong thời kỳ kháng chiến, Bộ Nội vụ còn được giao phụ trách công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự trị an. Để hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện có chiến tranh, Bộ trưởng Phan Kế Toại đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng lực lượng công an cách mạng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về bản chất chính trị trong xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân. Cụ đã trực tiếp ký ban hành Nghị định số 438/NĐ, ngày 10/10/1950 về tổ chức Ban Công an xã.  Ngoài việc lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Nội vụ thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Chính phủ liên hiệp kháng chiến và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại còn tích cực tham gia trong Hội đồng Quốc phòng tối cao. Hội đồng Quốc phòng tối cao có nhiệm vụ đặc biệt là nghiên cứu kế hoạch kháng chiến toàn diện, đệ trình Chính phủ duyệt y và thực hiện kế hoạch đó. Hội đồng Quốc phòng tối cao được Chính phủ ủy quyền giải quyết những vấn đề khẩn cấp liên quan đến quốc phòng.

Thu đông năm 1950 là thời điểm quan trọng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, chúng ta chuyển sang thế tiến công, tiến tới giành thắng lợi quyết định trên chiến trường. Thời kỳ này, Bộ Nội vụ đứng đầu là Bộ trưởng Phan Kế Toại tiếp tục tham mưu cho Chính phủ kiện toàn bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương, đề xuất các giải pháp quan trọng củng cố chính quyền cách mạng, giữ vững ổn định chính trị, xây dựng hậu phương kháng chiến vững mạnh. Bộ máy chính quyền cấp xã được Bộ Nội vụ chú trọng. Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Phan Kế Toại, Bộ đã dành nhiều công sức nghiên cứu, hướng dẫn và đề ra các biện pháp củng cố chính quyền xã nói riêng, chính quyền các cấp nói chung. Bộ trưởng Phan Kế Toại đã chỉ đạo nghiên cứu ban hành các thông tư: Thông tư số 03/TC-TT ngày 27/02/1953 ấn định các nguyên tắc về tổ chức chính quyền ở các thị xã, thị trấn; Thông tư số 03/TC-TT ngày 16/02/1954 ấn định các nguyên tắc về tổ chức chính quyền ở các thị xã và thị trấn; Thông tư số 12/HX-TT ngày 16/12/1954 về chỉnh đốn chính quyền huyện. 

Cùng với việc tham mưu đề xuất xây dựng củng cố chính quyền các cấp giai đoạn từ cuối năm 1950 đến tháng 12/1954, Bộ Nội vụ tiếp tục tham mưu cho Chính phủ đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo các quy định tại Quy chế công chức Việt Nam. Bộ trưởng Phan Kế Toại đã chỉ đạo nghiên cứu và trực tiếp ký ban hành Thông tư số 40/NV6-TT ngày 15/10/1950 về thăng thưởng cho công chức nhân ngày 01/05/1950; Nghị định số 357-NV/6 ngày 20/10/1950 về việc uỷ quyền quản trị những công chức thuộc Bộ Nội vụ cho Ủy ban Kháng chiến- Hành chính liên khu; Thông tư số 52/NV6-TT ngày 09/11/1950 thi hành kỷ luật đối với công chức phạm lỗi; Thông tư số 56/NV6-TT ngày 01/11/1950 về việc cho công chức thôi việc được hưởng một khoản trợ cấp; Thông tư số 5/NV2A-TT ngày 02/02/1951 quy định đặt huy hiệu công chức kháng chiến... Đó là những đóng góp quan trọng của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại trong việc xây dựng nền công vụ và chế độ công chức phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, đặt nền móng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ công vụ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hoà. 

Sau Hiệp định đình chiến, Bộ Nội vụ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Phan Kế Toại đã tham mưu cho Chính phủ và Hồ Chủ tịch đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhanh chóng tiếp quản Thủ đô, tiếp quản vùng giải phóng, góp phần ổn định chính trị, ổn định chính quyền và đời sống nhân dân, tạo cơ sở để nước ta bước sang giai đoạn lịch sử mới khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất, đấu tranh thống nhất nước nhà.

3. Tiếp tục đóng góp công sức xây dựng chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Ngày 20/9/1955, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết kiện toàn Chính phủ, cụ Phan Kế Toại được cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cũng trong tháng 9/1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cụ Phan Kế Toại được cử tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cụ Phan Kế Toại đã lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Nội vụ thực hiện tốt các nhiệm vụ Chính phủ giao. Đã tham mưu cho Chính phủ các giải pháp củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chỉnh đốn chính quyền nông thôn vững mạnh, xây dựng chính quyền các khu tự trị, góp phần thực hiện chính sách dân tộc của Chính phủ, xây dựng chính quyền thành thị... góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển trong giai đoạn cách mạng mới.

Bộ Nội vụ cũng đề xuất với Chính phủ ban hành Nghị định số 168/NĐ/TTg ngày 31/03/1958 thành lập Ủy ban Kiện toàn tổ chức Trung ương, Khu, Thành, Tỉnh. Đặc biệt, đã tham mưu giúp Hội đồng Chính phủ trình Quốc hội khóa I thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương; trình Quốc hội khóa II thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1960), tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức bộ máy hành chính ở trung ương cũng như ở địa phương. 

Trong công tác cán bộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại đã chỉ đạo xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật, các chế độ chính sách về cán bộ, về xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Đóng góp quan trọng của cụ Phan Kế Toại là đã chỉ đạo thành lập Học viện Hành chính, tiền thân của Học viện Hành chính Quốc gia ngày nay.

Trong giai đoạn này, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại còn chỉ đạo sâu sát tập trung giải quyết những vấn đề về kiện toàn, điều chỉnh bộ máy hành chính gọn nhẹ, thông suốt và tinh giản biên chế; chỉ đạo tổ chức bầu cử HĐND các cấp, góp phần xây dựng chính quyền nhà nước, hướng dẫn tổ chức, quản lý hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ, thực hiện công tác dân chính, quản lý hộ tịch, hộ khẩu và các lĩnh vực công tác nội vụ khác.

Từ năm 1961 đến 1965, nước ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bộ Nội vụ là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có nhiệm vụ quản lý công tác tổ chức và dân chính theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Phan Kế Toại tiếp tục chỉ đạo việc nghiên cứu, tham mưu đề xuất các giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy, sửa đổi lề lối làm việc, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ quan nhà nước các cấp, quản lý công tác Việt kiều, quản lý nhà đất, địa giới hành chính, lập hội, tổ chức phi chính phủ; xây dựng, hướng dẫn thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình quân nhân, bộ đội chuyển ngành.v.v... Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ tháng 11/1947 đến tháng 4/1963, cụ Phan Kế Toại đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Bộ, ngành Nội vụ ngày một vững mạnh, xứng đáng là một bộ trụ cột trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, tham mưu giúp Chính phủ thực hiện tốt các nhiệm vụ quan trọng có tính chất nội trị của quốc gia.

Trên cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ liên tục hai nhiệm kỳ phụ trách các lĩnh vực công tác nội vụ nội chính, Cụ Phan Kế Toại đã tích cực tham gia trong các hoạt động của Chính phủ. Với kiến thức được đào tạo bài bản, hệ thống, trí tuệ uyên thâm, kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc, với đức độ và tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Cụ đã tham mưu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ xây dựng nền hành chính và chế độ công vụ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa, góp phần tích cực vào việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử Đảng và nhân dân giao phó. Công lao đóng góp to lớn của Cụ đã được Đảng và Nhà nước ta ghi nhận, Cụ đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Đại đoàn kết.

Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Bộ Nội vụ (28/8/1945 - 28/8/2020), ôn lại những cống hiến to lớn của cụ Phan Kế Toại cho dân, cho nước, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Bộ Nội vụ luôn tự hào về một vị Bộ trưởng đáng kính đã làm vẻ vang truyền thống của Bộ Nội vụ./.

Bài đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước số 8/2013 

Địa chỉ điện tử: https://tcnn.vn/news/detail/47403/Cong-hien-to-lon-cua-Pho-Thu-tuong-Chinh-phu-kiem-Bo-truong-Bo-Noi-vu-Phan-Ke-Toai-cho-su-nghiep-khang-chien-kien-quoc-xay-dung-chinh-the-Viet-Nam-Dan-chu-Cong-hoa.html

--------------------------------

Tài liệu tham khảo: 

1. Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1 (1945-1955), tập 2 (1955-1976), Nxb CTQG, H.2005.

2. Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945- 2005, tập 1 (1945-1954), tập 2 (1955- 1975).

3. Việt Nam dân quốc, công báo các số 1948, 1949, 1950, 1951.

4. Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 1952, 1953, 1954.

5. Lịch sử Bộ Nội vụ, Nxb CTQG, H. 2005.

6. Biên niên lịch sử Bộ Nội vụ, Nxb Đại học Sư phạm, H. 2005.

7. GS. NGND Nguyễn Lân Dũng, Hồ Chủ tịch - linh hồn của tư tưởng đại đoàn kết (13/01/2011).

8. Nguyễn Túc, Phan Kế Toại một nhân sĩ yêu nước.

9. Ngọc Minh, Chuyện hai Cụ Nguyễn Ái Quốc và Phan Kế Toại, báo QĐND, thứ 7, 05/9/2009, tr.9,13.

10. Văn Tất Thu, Quan điểm và nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2010.


Xem thêm…

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và vấn đề đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay

01:23 |

Giá trị và ảnh hưởng to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với Đảng, với dân tộc Việt Nam và quốc tế được tạo nên bởi nhiều nhân tố, trong đó phải nói tới phong cách làm việc của Người. Đó là phong cách làm việc mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà khoa học chân chính, thể hiện rõ sự thống nhất biện chứng giữa tính chính trị - giai cấp, tính khoa học, vừa thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của nhà văn hóa lớn.

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh dựa trên nguyên tắc "bất biến" là mọi quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc phục tùng tổ chức, đoàn thể cách mạng. Bởi thế, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng của một vĩ nhân, bậc "Đại trí, đại nhân, đại dũng", với 24 năm liền trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta nhưng lại không xa lạ, khác thường, mà là cái mọi người cán bộ lãnh đạo có thể học tập và làm theo. Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh được thể hiện qua tư tưởng và thực tế làm việc của Người, nhưng có nhiều cái tuy không phải là "bí ẩn" nhưng chúng ta chưa biết hết được về phong cách làm việc của Người. Vì thế, những kết quả nghiên cứu về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh rất cần được tiếp tục bổ sung, phát triển.

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách thức làm việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là quần chúng nhân dân. Để đạt mục tiêu lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã tác động vào quần chúng nhân dân bằng một tác phong rất sâu sát, với cách thức phù hợp để phát huy cao nhất vai trò của họ. Cách làm việc này bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân lãnh tụ và quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin và từ phẩm chất đạo đức cách mạng trọn đời vì dân của Hồ Chí Minh.

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc"l. Người nhấn mạnh: "Cách làm việc, cách tổ chức... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng"2. Để có phong cách làm việc sát quần chúng, hợp quần chúng, Người yêu cầu cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc làm việc với quần chúng, nắm tâm tư nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của họ. Đồng thời phải tin yêu tôn trọng quần chúng, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình xây dựng của quần chúng; không chỉ giáo dục mà còn phải học hỏi quần chúng và nêu gương cho quần chúng noi theo. Người nhấn mạnh: "Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng"3, "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"4. Trong cách làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình chất lượng quần chúng, phân loại các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc cho hiệu quả, mặt khác phải nắm rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của dân chúng là "họ hay so sánh" và họ so sánh đúng vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì thế, "Người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh"5. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ phải phê phán và đấu tranh khắc phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh. Người yêu cầu các đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít.

Hồ Chí Minh không chỉ nói, viết để giáo dục cán bộ về phong cách làm việc sát quần chúng, hợp quần chúng mà Người đã thể hiện phong cách đó một cách mẫu mực để mọi người học tập và làm theo. Thực tế cho thấy, nhờ phong cách làm việc sát hợp quần chúng mà Hồ Chí Minh đã "đưa chính trị vào giữa dân gian", hòa mình với quần chúng để nghe được những điều quần chúng nói, thấu hiểu quần chúng để lãnh đạo họ.

Hồ Chí Minh có phong cách làm việc thật sự dân chủ, tôn trọng tập thể. Thực hiện dân chủ, tôn trọng tập thể là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của đảng kiểu mới. Đây là điều mà Hồ Chí Minh đã nói nhiều và đã thực hành trong quá trình làm việc với quần chúng, với cấp dưới, với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể cách mạng. Theo Người, trong công tác lãnh đạo, quản lý mà thực hành được dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến của mọi người thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để giải quyết thắng lợi mọi nhiệm vụ. Trong suốt quá trình công tác, Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về việc tôn trọng tập thể, phục tùng các quyết định của tổ chức, luôn tôn trọng ý kiến của mọi người, không phân biệt chức vụ cao thấp. Trước khi quyết định vấn đề gì, Người đều hỏi lại cẩn thận, chu đáo những người và cơ quan đã giúp mình chuẩn bị công việc. Người đã sớm cảnh báo về hiện tượng mất dân chủ, không tôn trọng tập thể trong công tác của cán bộ, nhất là những người có chức, có quyền cao. Phong cách làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể của Hồ Chí Minh hoàn toàn đối lập với phong cách làm việc theo kiểu áp đặt mệnh lệnh hành chính, độc đoán chuyên quyền, chủ quan duy ý chí, dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan, tùy tiện, tự do vô chính phủ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lối làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể phải đi liền với sự quyết đoán và tinh thần dám chịu trách nhiệm cá nhân. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ dẫn đến cái tệ bừa bãi lộn xộn, vô chính phủ”6.

Một nét đặc sắc trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là làm việc có tính khoa học. Người làm việc tận tâm, tận lực, hầu như không có thời gian nghỉ, làm việc với lòng nhiệt tình cách mạng vì nước, vì dân không với cách làm việc rất khoa học, cụ thể và thiết thực. Ở đây có một sự thống nhất hài hòa trong con người Hồ Chí Minh với cả tư cách của nhà cách mạng và nhà khoa học. Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh đối lập hoàn toàn và xa lạ với lề lối, cách thức làm việc mang nặng cảm tính chủ quan, phất phơ cốt cho hết ngày không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả công việc; làm việc một cách tự do, tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu kế hoạch; thiếu ngăn nắp, luộm thuộm, lề mề, chậm chạp, không coi trọng thời gian, lãng phí sức người sức của; làm việc thiếu cụ thể thiết thực; thiếu tầm nhìn xa trông rộng... Những biểu hiện như thế đã được Hồ Chí Minh chỉ ra và yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải kiên quyết khắc phục sửa chữa.

Để có phong cách làm việc khoa học, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều, chớ gặp sao làm vậy"7 và "việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn"8 . Khi ra các quyết định phải có thông tin đầy đủ và bảo đảm có phương án thực thi hiệu quả, không chủ quan duy ý chí, phải xây dựng thói quen tôn trọng thực tế khách quan, không bóp méo sự thật, làm việc với tầm nhìn xa trông rộng trên cơ sở dự báo khoa học về tình hình có liên quan để tránh bị động bất ngờ và tránh xa vào công việc mang tính sự vụ thiển cận. Người đã phê phán gay gắt những cán bộ mắc "bệnh cận thị". Không thấy xa trông rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ... Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”9.

Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rõ ở chỗ khi làm xong một công việc, dù thành công hay thất bại đều có tổng kết rút kinh nghiệm để tiến hành những công việc khác tốt hơn. Người lãnh đạo phải biết sử dụng bộ máy, những người cộng sự, những cơ quan giúp việc một cách khoa học, hiệu quả và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.

Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển "phương pháp làm việc biện chứng" - vốn được Người xem là ưu điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác. Với tư cách là nhà khoa học chân chính, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ “con mắt ta nhìn xã hội cũng phải khoa học”10 và trên thực tế, mọi cái nhìn của Người đối với các vấn đề đều ít nhiều mang tính khoa học. Người thường dùng phương pháp so sánh các sự việc, hiện tượng theo thời gian, không gian, tính chất để làm nổi bật vấn đề. Người đã đưa ra những nhận định sâu sắc về những điều ẩn chứa đằng sau các số liệu báo cáo qua những con số cụ thể. Trong bài viết Ý kiến về việc làm và xuất bản loại sách “người tốt, việc tốt” (1968), Hồ Chí Minh có viết: "Các chú sẽ xem bản kê này, Bác đã ghi rõ mỗi ngành, mỗi giới, mỗi địa phương, già, trẻ, gái, trai, miền ngược, miền xuôi, Việt kiều mới về nước... có bao nhiêu người được khen thưởng. Những con số ghi trong này không có ý nghĩa là ngành này, giới này, tỉnh này anh hùng hơn ngành, giới, tỉnh kia. Nơi nào có ít người được khen là do khuyết điểm của cấp lãnh đạo ở đó"11.

Nét đặc sắc nổi bật trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm, nêu gương trước cấp dưới và quần chúng. Người sớm nhận thức sâu sắc rằng: sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạt động của người cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn để vận dụng lý luận một cách phù hợp, sáng tạo, qua thực tế mà bổ sung, phát triển lý luận. Phải phòng chống bệnh giáo điều, xét lại và chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường lý luận. Hồ Chí Minh đã nêu một kiểu mẫu về sự gắn kết chặt chẽ, khoa học giữa lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng thời thể hiện một tấm gương sáng về nói đi đôi với làm và nêu gương cho mọi người học tập, làm theo. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã đánh giá: "Mọi lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói là làm, thường là làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành động"12.

Hồ Chí Minh đã phê phán một số cán bộ chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được và yêu cầu cán bộ, đảng viên nói là phải làm, "nói ít, bắt đầu bằng hành động"13, "tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước"14. Muốn vậy phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm của mình, đồng thời phải hoan nghênh người khác, phê bình mình, phải chống những bệnh hữu danh, vô thực, bệnh hình thức. Về phía tổ chức Đảng, Người chỉ rõ "Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng"15.

Với cương vị, trọng trách của người đứng đầu Đảng và Nhà nước, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng to lớn đến nâng cao chất lượng lãnh đạo và uy tín của Đảng đến tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đến hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Trong tình hình hiện nay, việc đổi mới phong cách làm việc theo tư tưởng và tấm gương về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết.

Có thể khẳng định rằng, những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò "cái gốc của mọi công việc" của đội ngũ cán bộ, trong đó phải nói tới những cố gắng của họ để khắc phục những hạn chế, yếu kém về phong cách làm việc và rèn luyện phong cách làm việc mới theo tư tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh. Phần đông cán bộ có phong cách lãnh đạo ngày càng sâu sát cơ sở, làm việc một cách khoa học, dựa trên trình độ học vấn ngày càng cao và chuyên sâu công việc, năng động sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhiều cán bộ đã thực hành tốt nói đi đôi với làm và nêu gương trước cấp dưới, được quần chúng khen ngợi. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong phong cách làm việc. Đáng lưu ý là có một số ít cán bộ có chức, có quyền cao còn biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, hống hách. Một số cán bộ coi thường tính đảng, tính nguyên tắc trong công việc, lấy yêu cầu năng động, sáng tạo để che đậy cho những việc làm sai trái; một số cán bộ đã biến lối làm việc tập thể, cá nhân phụ trách thành "cá nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm" khi có sai phạm xảy ra. Một số cán bộ lãnh đạo còn làm việc nặng theo kinh nghiệm, cảm tính, thói quen tùy tiện, chưa coi trọng tính khoa học trong làm việc. Một số cán bộ làm việc nhiệt tình nhưng hiệu quả thấp do thiếu tính khoa học, có khi còn gây thiệt hại cho tập thể. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo, đang tồn tại ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mà biểu hiện rõ nhất là ở vấn đề nói và thực hành chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tình trạng này không những làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng mà còn làm cho kỷ cương, phép nước bị coi thường. Thực tế này vừa phản ánh phong cách làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu mới, vừa phản ánh sự yếu kém về năng lực trí tuệ, sự thoái hóa về đạo đức và những khát vọng đam mê quyền lực, lợi ích vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa của một bộ phận cán bộ. Những hạn chế, bất cập về phong cách làm việc của cán bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "chúng ta hoặc ít hoặc nhiều đều mắc phải tư tưởng, tập quán, tác phong của xã hội cũ"16. Mặt khác cán bộ, đảng viên cũng ở trong xã hội mà ra, nhiều điều kiện bảo đảm cho làm việc chưa đáp ứng được, trong làm việc không thể tránh khỏi những yếu kém, hạn chế về phong cách. Song, cần phải thấy rõ nguyên nhân chủ yếu từ phía bản thân người cán bộ, người lãnh đạo cả về trình độ năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, việc tự giáo dục, rèn luyện phong cách mới.

Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, cần tiếp tục đổi mới giáo dục, nâng cao nhận thức về tư tưởng và phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, gắn liền với tiếp tục thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Phải làm cho mọi cán bộ thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng và nội dung yêu cầu của học tập và làm theo phong cách làm việc của Hồ Chi Minh. Từ đó, cụ thể hóa và xác định những yêu cầu cơ bản về phong cách làm việc của từng loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cho phù hợp. Khắc phục kịp thời những biểu hiện nhận thức hời hợt, phiến diện, chỉ thấy phong cách làm việc là do cá tính riêng của từng người và môi trường làm việc quy định; không thấy được mối quan hệ giữa phong cách làm việc với năng lực công tác và phẩm chất chính trị đạo đức, giá trị nhân văn của người cán bộ cách mạng. Cần phải xóa bỏ tư tưởng thần thánh hóa phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, từ đó cho rằng cán bộ không thể làm theo phong cách ấy được. Đồng thời, cũng phải khắc phục nhận thức chỉ thấy phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là phong cách làm việc của một "nhà chính trị chuyên nghiệp" mà không thấy phong cách làm việc của một nhà khoa học chân chính, luôn thống nhất giữa tính đảng, tính chính trị với tính khoa học trong mỗi lời nói, việc làm và quan hệ công tác. Phong cách làm việc của người lãnh đạo không hình thành một cách tự nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Ngày nay đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đang có sự phát triển mới, trình độ dân trí ngày một cao, quan hệ ngày càng rộng rãi, xu thế công khai dân chủ hoá đang được mở rộng, các thành tựu về khoa học công nghệ nhất là về tin học, về điện tử đang được ứng dụng vào đời sống và các quan hệ làm việc. Điều đó, đặt ra yêu cầu cao về phong cách lãnh đạo quản lý của cán bộ, đòi hỏi họ phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững tri thức về con người, biết trao đổi, làm việc với từng đối tượng con người cụ thể một cách thật sự dân chủ, văn hóa. Người lãnh đạo, quản lý phải biết thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác, kịp thời trên cơ sở quán triệt đúng quan điểm giai cấp và nguyên tắc thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học. Để hình thành phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, biết xấu hổ, cắn dứt, giày vò lương tâm vì những hành vi sai trái do phong cách làm việc gây ra đối với người khác. Trong làm việc, người cán bộ phải nêu gương, thể hiện rõ thái độ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp dưới, biết tự trì trích để tiến bộ.

Việc xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý không tách rời với việc đổi mới cơ chế lãnh đạo, quản lý xã hội. Vì thế, cần phải tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế này, trong đó nổi lên là phải tiếp tục phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Giữa các cơ quan, đơn vị cần phải tăng cường phối hợp trong công tác, chủ động thiết lập và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ; khắc phục tình trạng làm việc khép kín, cục bộ, bảo thủ; phân công, phân nhiệm không rõ ràng, chồng chéo, thủ tục rườm rà, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Điều rất quan trọng là trong công tác cán bộ cần phải xem xét, đánh giá phong cách làm việc của cán bộ một cách khách quan, khoa học, góp phần làm cơ sở để cất nhắc đề bạt, luân chuyển, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Hàng năm, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần thống nhất đánh giá thực trạng phương pháp tác phong công tác của cán bộ. Xây dựng kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác cho cán bộ phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ, điều kiện, khả năng và chức trách của cán bộ. Thực hiện tốt chế độ kiểm tra báo cáo, sơ kết tổng kết kinh nghiệm, sớm phát hiện yếu kém, lệch lạc trong phương pháp, tác phong công tác của cán bộ để uốn nắn, khắc phục kịp thời./.

Đại tá PGS,TS. Nguyễn Văn Thế

Học viên Chính trị - Bộ Quốc phòng

Nguồn: Tạp chí Giáo dục chính trị quân sự (2009)

_________

Chú thích

1, 2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t. 5, tr.246, 248, 293, 297, 297.

6, 7, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.505, 239, 257.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr. 257.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.298.

11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.12, tr.548.

12. Phạm Văn Đồng : Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, H.1990, tr.64-65.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.430.

14, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t. 5, tr.108, 250.

16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.215.

Xem thêm…

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của người cán bộ

01:21 |

 

PGS.TS. Trần Thị Minh Tuyết - Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Người coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”[1]“cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể”[2] và đi đến kết luận: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[3]Vai trò của người cán bộ lớn bao nhiêu thì trách nhiệm của người cán bộ cũng nặng nề bấy nhiêu. Do đó, để làm tốt chức trách, người cán bộ phải đủ đức, đủ tài. Và đức, tài của người cán bộ lại được thể hiện sinh động qua phong cách làm việc. Với thực tiễn cách mạng, với tầm nhìn của một nhà tư tưởng lớn, Hồ Chí Minh cho rằng, bồi dưỡng, rèn luyện phong cách làm việc tốt là yêu cầu thường xuyên, cấp bách cho từng con người trong bộ máy nhà nước phục vụ nhân dân và cán bộ phải rèn luyện để có được những tác phong trọng yếu sau đây:

  Một là, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ”

 Hồ Chí Minh cho rằng, đây là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Do bản chất của “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”[4]. Vì thế, người cán bộ phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho quần chúng, cán bộ cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người đó càng thêm hăng hái sáng tạo và làm việc. Ngược lại, nếu người cán bộ không dân chủ thì mọi người “dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau… Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”[5]. Như vậy, phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sức sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.

Người có tác phong dân chủ là người thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người. Có công to, việc lớn gì cũng phải bàn bạc kỹ lưỡng trong tập thể rồi mới ra quyết định và động viên tất cả mọi người tích cực thực hiện.

Người có tác phong dân chủ sẽ không bao giờ “độc tôn chân lý” mà ngược lại, họ thành thực trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng.

Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói:  “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[6]. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”[7] là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”[8]. Tuy nhiên, dân chủ mà Hồ Chí Minh nói đến là dân chủ có định hướng, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức.

Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc dân chủ mà bản thân Người còn là tấm gương ngời sáng về việc thực hiện tác phong đó. Lịch sử cho thấy, dù trong những hoàn cảnh gấp rút đến đâu, trước khi  quyết định những vấn đề lớn liên quan đến sự nghiệp cách mạng và số phận dân tộc, Hồ Chí Minh đều tiến hành thảo luận dân chủ trong tổ chức. Khi viết các tác phẩm quan trọng như Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Lời kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước (1966), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969)…, Người đều xin ý kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Trong các cuộc họp do Hồ Chí Minh chủ tọa, Người thường yêu cầu mọi người hãy “nhìn quanh chân trời”, xem tình hình thế giới ra sao, tình hình trong nước thế nào và ai biết gì cứ nói, tất cả cùng lắng nghe, bàn bạc thấu đáo rồi mới đi đến quyết định. Cuối đời, trong lần làm việc với các cán bộ tuyên huấn về cách làm và xuất bản sách “Người tốt, việc tốt”, Người còn nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm hay làm một cách qua loa”[9]. Tinh thần dân chủ, phong cách dân chủ của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ lòng yêu thương và tôn trọng con người nên Người thực hiện nó như một điều tất yếu.

 

Hai là, phong cách quần chúng

Thấu hiểu vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và coi quần chúng không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có tác phong quần chúng.

Trước hết, người cán bộ phải gần gũi quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê bình những cán bộ cậy thế ở trong ban này, ban nọ rồi coi khinh dân, lên mặt với dân. Người cũng phê phán lối lãnh đạo quan liêu, chỉ đạo phong trào trên giấy tờ. Người yêu cầu người cán bộ phải thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Ngược lại, nếu “cách xa dân chúng, không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[10]Tuy nhiên, lắng nghe quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” vì “trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu”[11].  Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.

Tiếp đến, người cán bộ phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của  quần chúng.  Người phê phán mạnh mẽ lối lãnh đạo quan liêu, áp đặt. Người nói: “Nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy”[12]. Người cán bộ không được phép cứng nhắc mà phải căn cứ vào thực tế để đề nghị cấp trên điều chỉnh quy tắc, kế hoạch chưa hợp lý. Hồ Chí Minh còn chỉ ra cách thức làm nghị quyết và làm công tác chỉnh đốn cán bộ như sau: “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[13]. Người cán bộ còn phải biết dựa vào quần chúng, biết phát huy sức mạnh của quần chúng để triển khai công việc và hoàn thành công việc. Tóm lại, “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”[14].

Thứ nữa, trong công tác và trong sinh hoạt, người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ , rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín, giữ được thể diện. Nói thế hết sức sai. Muốn có oai tín thể diện, thì phải làm việc cho giỏi. Nếu ăn mặc bảnh, mà được oai tín thể diện, thì mấy chàng Sở Khanh chẳng nhiều oai tín lắm ư? Mà Hồ Chủ Tịch, quanh năm bốn mùa, chỉ mặc một bộ áo vải ka ki cũ, mỗi ngày có rau ăn rau, có mắm ăn mắm. Như thế, Người chẳng mất oai tín thể diện đi sao”[15]? Suốt đời, Vị Chủ tịch kính yêu của nhân dân Việt Nam đã sống một cuộc đời thanh bạch đến khắc khổ bởi cho rằng, khi đời sống của nhân dân còn khó khăn mà người cán bộ lại hoang phí thì “hoang phí là tội ác”[16].

Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.

Ba là, phong cách khoa học

Giáo dục cho cán bộ phong cách làm việc khoa học để nâng cao hiệu quả công việc là điều Hồ Chí Minh rất chú trọng.

Theo Người, cán bộ làm việc gì cũng phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì phải làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc ấy”[17]. Hết sức tránh chuyện vạch ra “chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.

Người làm việc khoa học phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại”[18]. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc. Người giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”[19].

Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, với tầm tư duy chiến lược. Tức là người cán bộ phải trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “bệnh cận thị - Không trông xa, thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”[20]. Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài. Tầm nhìn –  đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách làm việc khoa học. 

Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ phải có “con mắt xanh” để nhìn đúng người, nhìn ra việc, sắp xếp công việc cho hợp lý. Lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả. Kiểm tra để biết đường lối, nghị quyết của Đảng được tổ chức thi hành như thế nào và cần điều chỉnh như thế nào vì “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không kịp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp thế”[21]. Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ vì “có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”[22]. Người làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.

Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”[23]. Đi “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” là cách tư duy và hành động của người có đầu óc khoa học.  

Bốn là, phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm

Trong văn hóa phương Đông, nêu gương được coi là phương pháp giáo dục trọng yếu nhất, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[24]. Xưa kia Khổng Tử nói rằng, nhà cầm quyền “tự mình giữ theo chính đạo, thì chẳng cần đợi ra lệnh, dân cũng ăn ở theo chính pháp. Còn nếu như tự mình chẳng giữ theo chính đạo thì dẫu ra lệnh buộc dân theo, dân cũng không theo”(Luận ngữ). Lãnh tụ của giai cấp vô sản - V.I.Lênin thì khẳng  định: Những người cán bộ, đảng viên không có một đặc quyền nào, trừ một quyền là luôn luôn ở phía trước. Thấm nhuần tất cả những quan điểm mang tính chân lý đó, Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ:  “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[25]. Người còn nói rõ: “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”[26], “mình trước hết phải siêng năng, trong sạch mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”[27].

Theo Hồ Chí Minh, sinh ra là con người, ai cũng có 3 mối quan hệ: Với mình, với người và với việc. Người cán bộ phải thực hành nêu gương trên cả 3 mặt đó. Với mình thì không tự cao tự đại; luôn thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Với người thì luôn chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, khoan dung. Với việc thì luôn thực hành nguyên tắc “dĩ công, vi thượng”. Và đạo đức công vụ của người cán bộ không nằm ngoài đạo đức công dân. Họ trước hết phải là một công dân tốt, phải vận động mọi thành viên trong gia đình sống và làm việc theo pháp luật. Nếu người cán bộ không vận động được những người trong gia đình mình sống gương mẫu thì cũng không đủ tư cách vận động quần chúng. Khi người cán bộ thực hiện công tác dân vận thì phải thực hiện phương châm “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” chứ không phải chỉ đứng trên cao diễn thuyết. Tức là người cán bộ phải biết gương mẫu mọi nơi, mọi lúc, trong công việc cũng như trong cuộc sống đời thường. Người giải thích cho cán bộ về nghĩa vụ “đi đầu” của người cán bộ: “Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sỹ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sỹ xung phong. Đã vậy, thì mỗi người đảng viên phải cố gắng cho xứng đáng là một người trong những người đại biểu của dân tộc”[28].

Một trong những nội dung quan trọng mà người cán bộ cần nêu gương là nói đi đôi với làm. Với Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo đức công vụ tối thiểu. Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ, do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”[29]. Nhân dân không bao giờ tin cậy những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều mình đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài. 

Phong cách làm việc của người cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều nội dung nhưng tất cả đều gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và xuất phát từ yêu cầu về tài và đức của người cán bộ. Những người làm việc dân chủ, gần gũi quần chúng là bởi họ trọng dân, yêu dân, tin dân. Họ làm việc khoa học vì họ có đầu óc phân tích, có tư duy rành mạch và sự nhạy cảm trong công việc. Họ nói đi đôi với làm, có ý thức nêu gương bởi họ có lòng tự trọng, có tinh thần trách nhiệm cao. Người cán bộ có đức, có tài sẽ có tác phong làm việc tốt và ngược lại. Nhưng những ai có ý thức tu dưỡng, rèn luyện cho mình phong cách làm việc tốt thì dần dần cái tài sẽ lớn lên, cái đức sẽ dầy thêm. Và đây cũng là chính là những chỉ dẫn để người cán bộ có đức có tài tiếp tục phấn đấu, vươn lên, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, của dân tộc./.

Nguồn: Tạp chí điện tử Tổ chức nhà nước

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, t.5, tr.68.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.356.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.313.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378.

[5] Hồ Chí  Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.283.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.176,

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 637.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.661.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 326.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.336.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 288.

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.337 – 338.

[14] Hồ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.5, tr.288.

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.241.

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 241.

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 332.

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.123.

[19] Hồ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.5, tr.463.

[20] Hồ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.5, tr.297.

[21] Hồ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.4, tr.28.

[22] Hồ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.5, tr.636.

[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr.283.

[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.284.

[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.16.

[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.130.

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.98.

[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.293.

[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.327. 

Xem thêm…


Thế hệ Hồ Chí Minh | Ban Quản lý Lăng Bác | Bảo tàng Hồ Chí Minh | Học viện Chính trị Quốc gia |